
TRUYỆN NGẮN CỦA GARY SOTO: CHIẾC BÁNH TÁO (THỤC ĐAN DỊCH)
Gary Soto sinh ngày 12/4/1952 tại Fresno, California, trong một gia đình lao động gốc Mexico. Ông theo học tại Cao đẳng Thành phố Fresno, Đại học Bang California–Fresno và lấy bằng MFA từ Đại học California–Irvine năm 1976. Tập thơ đầu tay The Elements of San Joaquin giành Giải thưởng Hoa Kỳ của Diễn đàn Thơ quốc tế và được xuất bản năm 1977. Sau đó, ông phát hành nhiều tác phẩm nổi bật, trong đó có New and Selected Poems. Soto chịu ảnh hưởng từ các tác giả như Pablo Neruda, Edward Field và Gabriel García Márquez. Ngoài thơ, Soto còn viết tiểu thuyết, hồi ký (Living Up the Street), sách thiếu nhi và lời cho vở opera Nerdlandia. Ông từng nhận Huy chương Andrew Carnegie cùng nhiều học bổng danh giá.
Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu một truyện ngắn tiêu biểu của Gary Soto, “Chiếc bánh táo” (The Pie), do Thục Đan chuyển ngữ và gửi cộng tác tới Văn+.
CHIẾC BÁNH TÁO
Tôi đã biết quá đủ về địa ngục để không trộm cắp, tôi thực sự là một cậu bé trong sạch. Có những ngày, tôi nhận ra bóng dáng các thiên thần lướt qua vườn cỏ sau nhà. Và những ngày khác, tôi nghe thấy những “thông điệp xa xăm” rít lên từ hệ thống ống nước khi tôi bò vào trong, tìm kiếm trò tiêu khiển.
Nhưng sự buồn chán đã khiến tôi nhúng chàm. Một lần đi Chợ Đức, đứng trước kệ bánh, tôi hảo ngọt đến phát điên và “dòng chảy” tội lỗi ướt đầm dưới cánh tay. Nhìn xem, có tất thảy chín loại, cả bánh táo óc chó yêu thích nữa. Dù bánh quả anh đào trông cũng rất tuyệt còn bánh socola thì nom béo ngậy, tôi suýt òa khóc vì cảm giác tham lam trỗi dậy trong lòng, quên mất cả ánh hào quang tỏa rạng như làn bụi hoa của các vị linh mục, quên đi bóng dáng những thiên thần. Chúa dường như gần bên tôi, tiếng nói Ngài khẩn thiết từ nơi sâu thẳm. Tôi lén lấy một chiếc bánh giấu sau “nắp cà phê Frisbee” và bước ra cửa, cười gượng với người bán hàng hói đầu nhưng có vầng trán thật sáng.
“Không ai nhìn thấy cả”, tôi tự nhủ, chiếc bánh như đĩa ném trong tay tôi, vội vã băng qua đường và yên vị trên bãi cỏ của một người nào đó. Mặt trời lấp ló qua những cành cây sung dâu ngả vàng, một con sóc đang bám chặt trên cành cây cao, thân cây chẻ thành hai với lớp vỏ đầy những vết nứt. Khi tôi chuẩn bị chạm ngón tay sạch sẽ nhất của mình vào chiếc bánh, cùng lúc đó một người hàng xóm bước ra ngoài hiên lấy thư. Ông ta đã nhìn thấy, tôi bất giác đứng dậy và đi thẳng về nhà. Đôi chân gầy guộc phóng như bay, nhưng buộc phải giảm tốc và đi bộ thật nhanh khi không thể chờ đợi thêm. Rồi tôi đưa chiếc bánh lên mũi và tận hưởng mùi vị ngọt ngào của nó, liếm một chút vỏ bánh, nhắm mắt lại cắn một miếng nhỏ.
Ở sân trước nhà, tôi tựa vào tấm chắn bùn chiếc xe ô tô và bắt đầu lo lắng về việc đã ăn cắp chiếc bánh táo. Tôi vẫn nhớ rằng một quả táo đã khiến Eva gặp rắc rối lớn thế nào với con rắn, Chị Marie đã cho chúng tôi xem bộ phim có cảnh Adam và Eve bị đuổi ra sa mạc, và điều làm tôi sợ hơn cả việc mất đi cảm tình của mọi người là phải sống suốt đời trong khát khao và thiếu thốn. Tôi vẫn không thể ngừng xé một miếng bánh từ chiếc khay và nhét vào miệng. Chiếc bánh ngọt ngào và óng ánh vàng dưới nắng chiều. Tôi ăn thêm vài miếng nữa, những miếng bánh ướt đẫm trên ngón tay, cảm thấy muốn khóc vì đó là thứ ngon nhất tôi từng nếm thử. Tôi nhận ra, ngay lúc đó, khi chỉ mới sáu tuổi, trong cơ thể bé nhỏ với hai trăm đốt xương, ba, bốn tội lỗi, rằng những điều tuyệt vời nhất trong cuộc sống thường đến từ những thứ bị đánh cắp. Tôi lau ngón tay dính đầy bánh lên cỏ và liếm miệng. Một tiếng ợ phảng phất trong không khí.
Tôi cảm thấy tội lỗi vì đã không chia sẻ chiếc bánh với Johnny Mắt Lác, hàng xóm của tôi. Nó đã đứng bên tôi và hỏi: “Cho tớ một ít nhé?” Vỏ bánh rơi ra khỏi miệng tôi, với hàm răng dính đầy nhân mứt, đôi mắt mờ đi vì khóc khi nhớ đến vầng trán của người bán hàng. Tôi nhớ những chiếc bánh còn lại trên giá, không khí ấm nóng từ chiếc quạt trên cửa và chiếc xe ô tô bấm còi inh ỏi khi tôi bất cẩn băng qua đường.
“Cậu đi đi” tôi trả lời Johnny Mắt Lác. Nó nhìn tay tôi đầy tham lam đẩy những miếng bánh lớn vào miệng. Johnny nuốt nước bọt, nó thì thầm: “Tay cậu thật bẩn” rồi quay về, leo lên mái nhà nhìn tôi ăn bánh. Một lúc sau, nó nhảy xuống và rốt cuộc phải đi cà nhắc vì cú ngã đau điếng. Tôi ngồi trên vỉa hè, khay bánh sáng loáng nhìn tôi và “lăn” đi khi những cơn gió thoảng qua. Gương mặt tôi “dính” đầy tội lỗi. Một chiếc xe ô tô tuýt còi, và người lái xe có lẽ cũng đã hiểu chuyện gì đang xảy ra. Bà Hancock đứng trên bãi cỏ nhà bà, tay chống hông, bà biết rồi. Mẹ tôi, đang bóc khoai tây ở nhà máy Redi-Spud, cũng biết. Tôi đứng dậy, bụng căng cứng, hàm mỏi vì nhai, ném chiếc Frisbee qua đường, bóng của nó như bóng thiên thần chạy trốn khỏi tội lỗi. Tôi lại nhặt lấy nó, và chạy thật chậm. Tôi chơi cho đến chán, cổ họng thì khát khô.
Tôi về nhà uống nước và giúp chị gái dán nắp chai vào bìa cứng, một dự án cho lớp học mùa hè. Nhưng trò này rồi cũng khiến tôi chán ngấy, còn nước thì làm bụng tôi no cành còn hơn những chiếc bánh. Nhà bếp nóng nực và đầy những ruồi, tôi bò xuống dưới nhà, nằm trong bóng mát, lắng nghe tiếng ống nước rít lên. Chúa đấy ư? Hay là Cha, tiếng nói từ cõi chết, hay là Chú với đồng xu sáng lóa cuối cùng? Tôi chăm chú lắng nghe, tai áp vào ống nước lạnh lẽo, tưởng như nghe thấy tiếng rít của biển cả. Nằm một lúc thì cảm thấy toàn thân hơi lạnh, tôi bò ra chỗ sáng, đứng lên chỉ bằng một đầu gối, rồi bên kia, phủi bụi bám trên chiếc quần, nheo mắt vì những tia sáng gay gắt. Tôi đã nhìn thấy ánh sáng của khay bánh trong một ngày nắng nóng, tội lỗi là những gì bạn lấy đi mà không mang trả lại!
Thục Đan (dịch)