
Trên chuyến tàu cuối – László Krasznahorkai
Bạch Dương chuyển ngữ từ tiếng Tây Ban Nha “El Ultimo barco” của Adan Kovacsics, là truyện đầu tiên trong tập “Relaciones misericordiosas” (Kegyelmi viszonyok, 1986) – bản in 2023, Barcelona
Truyện của László Krasznahorkai đưa độc giả vào một cảnh sầu. Nhưng không giống “Đêm giã từ Hà Nội”, chuyến tản cư này hoàn toàn vô nghĩa, hoàn toàn được bọc trong một nỗi chán nản đen ngòm của không danh tính, không tên tuổi, phi trật tự và vô bản quán. Đến cái ác hiểm hãi hùng thường thấy của hỗn loạn cũng không có nốt! Một nhóm người, dường như là những người cuối cùng còn sót lại ở một thành phố tiêu điều, chuẩn bị leo một con tàu cũ trên sông Danube. Sau bao ngày chờ đợi mòn mỏi, họ ra bến cảng lúc trời còn tối mò, mang theo đủ thứ hành lý kỳ cục – toàn những thứ nặng trĩu kỷ niệm chứ chẳng có giá trị gì. Họ đi đâu về đâu? Dưới con mắt soi mói của lính EVA, chuyến đi này dường như là cách duy nhất để họ thoát khỏi cái “thành phố điên rồ, trống rỗng”, một chuyến đi chỉ biết rằng – mãi cho đến phút chót – đã bỏ lại đời cũ và quê hương sau lưng!
Vực thẳm mở ra khắp nơi trong tác phẩm, dẫu các đoạn văn được “hàn” kín lại, không xuống dòng, trước khi “phong cảnh đang biến mất mãi mãi trong bóng tối kín trùm, kêu lên nhẹ nhõm mà cay đắng: «Nhìn kìa, đó từng là nước Hung».”
TRÊN CHUYẾN TÀU CUỐI
Để tưởng nhớ Mihály Vörösmarty.
Trời hãy còn mịt khi chúng tôi lên đường, và dẫu biết rằng chẳng còn duyên cớ gì mà kỳ vọng ngây thơ, bởi sáng hay tối cũng chẳng khác gì nhau, chúng tôi vẫn nghĩ rằng ngày hôm đó trời cũng sẽ rạng, mặt trời sẽ lên, ánh dương sẽ tỏa, nghĩa là, trời sẽ hửng sáng và chúng tôi sẽ nhìn thấy nhau, những gương mặt nhàu, những bọng mắt máu, những da dẻ sùi sau gáy, chúng tôi sẽ nhìn thấy sau lưng mình vệt nước là phẳng mặt sông, những nhà hoang bến cảng, những con phố vắng nhẵn len lỏi giữa chúng và rồi, xa hơn nữa, bên kia thành phố, bờ sông hơi nhô lên và trải rộng ra, đợi một giờ linh vĩnh quyết. Trong bóng tối chúng tôi lên đường, và mặc dù hiếm khi cất tiếng trò chuyện (nếu chúng tôi tình cờ gặp nhau trên đường ra cảng Danube, nếu tình cờ một người đi ngang qua người khác hoặc nhiều người đi ngang qua một người), tuy nhiên, chúng tôi cần những hình bóng mờ ảo, hầu như chẳng nhận thấy được, bởi chỉ nhờ có thể, chúng tôi mới có thể xác định được vị trí tạm thời và hướng đi đúng của mình, vì đèn pha của những chiếc xe địa hình thuộc đơn vị EVA vụt qua vụt lại với tốc độ chóng mặt, thay vì giúp được gì, thì lại khiến chúng tôi chỉ tổ mất phương hướng thêm, và mặt khác, chúng tôi không thể tin vào thói quen vào thời điểm mọi thứ đều trở nên nguy hiểm. Sau nhiều tuần đợi chờ thấp thỏm, phấn khởi trước tin tức về giờ khởi hành chính xác được thông báo vào lúc bình minh bằng loa phóng thanh và trên những tấm áp phích viết tay, thậm chí không đợi nghi lễ bình minh bắt đầu, một nghi lễ vô lý và gần đây khập khiễng đến tuyệt vọng, chúng tôi lên đường từ những xuất phát điểm xa gần khác nhau của thủ đô và thực ra, tất cả đều từ cùng một nơi, từ dưới lòng đất, như chuột – cái giống mà nhờ khả năng sinh tồn phi thường đã trở thành gần như một loại động vật linh thiêng trong những tháng gần đây và do đó, trở thành đối tượng chú ý duy nhất của chúng tôi: từ những tầng hầm, từ những hang ổ, từ những hốc tường từng là kho chứa thức ăn, từ những giếng cạn và những nơi trú ẩn tạm thời, và những ai không cho rằng những giải pháp đó đủ an toàn thì chui lên từ những đường hầm tàu điện ngầm và tàu ngoại ô, từ đáy những nhà tắm kiểu Thổ và những xưởng sửa chữa dưới lòng đất hay từ mê cung cống rãnh, nơi được coi là an toàn nhất, và bắt đầu cuộc hành trình, ngắn hay dài, với hành lý đã chuẩn bị từ lâu hoặc không có gì. Tuy nhiên, sẽ là cường điệu nếu nói rằng «khi ấy đường phố nhộn nhịp», bởi vì như sau này mới biết, chúng tôi chỉ còn lại khoảng sáu mươi người trong thành phố, nghĩa là, EVA đã đúng khi cho rằng một con tàu sông nhỡ nhỡ sẽ hoàn toàn phù hợp với nhu cầu, và chính điều đó, kích thước, đã khiến một số người trong chúng tôi ngạc nhiên cho đến tận lúc khởi hành, tất nhiên, vì trước sự bất khả thi của đường bộ và hàng không, tất cả chúng tôi đều hiểu rõ rằng giải pháp duy nhất là đường thủy. Mối lo ngại lớn nhất để đến được cảng là ý nghĩa – hay tính vô nghĩa – của hành lý, phần lớn bao gồm những chiếc vali lớn nhỏ, túi du lịch, bao tải và hộp các tông, bởi vì tinh thần của tình huống đã khiến ngày càng nhiều đồ dùng cá nhân bắt đầu thay thế những đồ vật hữu ích đã tích lũy cho đến khi cuối cùng chẳng còn lại gì thực dụng: thay vì đồ lót ấm áp, người ta mang theo chiếc đồng hồ cúc cu hỏng; thay vì bột mì và bột sô cô la, thì là bộ sưu tập hộp diêm, và trong những ngày trước khi khởi hành, dường như một cái tẩu thuốc rẻ tiền còn quan trọng hơn bếp lò và những vỏ sò biển còn quan trọng hơn thuốc giảm đau răng hay chữa đau đầu. Chúng tôi chịu đựng theo những cách khác nhau cái ý niệm rằng cả hai giải pháp đều vô nghĩa: một số người lê lết qua thành phố với tất cả đồ đạc của mình và đến tàu trong tình trạng kiệt sức, thở hổn hển, chân tay tê cứng; những người khác, ngược lại, đến tay không, trong khi nắm đấm siết chặt của một số người cho thấy có cái gì đó họ không thể bỏ sau lưng, trên đường phía trước. Chúng tôi lần lượt đến «bến tàu tạm» và, vì tin chắc rằng sáu mươi người chúng tôi chỉ đóng vai trò tiên phong, điều ngạc nhiên lớn nhất đối với chúng tôi là con tàu đã sẵn chờ, lặng lẽ trong bóng tối. Thoáng nhẹ nhõm khi chúng tôi nhận ra, khi đến từ những con phố lân cận bến tàu, rằng chúng tôi không phạm sai lầm nào và thực sự có thứ gì đó đang nổi trên mặt nước, cũng không xua tan được nỗi ngạc nhiên. Con «tàu sông Danube cỡ trung bình» khiến tất cả chúng tôi nhớ đến một con tàu phế liệu u ám và vô dụng mà có lẽ văn phòng du lịch từng cho là phù hợp để thay thế một chuyến du ngoạn bằng tàu – với sự lắc lư chậm chạp của nó khi chở các nhóm học sinh, dẫu chuyện cũng lâu rồi, vì phương tiện thủy vận dành cho chúng tôi đã chìm xuống đến mức thi thoảng sóng cả lại quét qua boong tàu và chỉ cần ba hoặc bốn người khỏe mạnh là đủ để nhấn chìm nó vĩnh viễn. Linh cảm của chúng tôi xấu đi khi không thấy bất kỳ chuyển động nào trên tàu, không có thủy thủ hay sĩ quan EVA nào xuất hiện, cabin lái tối om và bến tàu cũng vắng tanh, dù chúng tôi có nhìn sang hai bên đến đâu. Và – trong khi chúng tôi ngày càng sốt ruột chờ đợi ai đó xuất hiện trên đài chỉ huy hoặc một chiếc xe địa hình của EVA đến để bắt đầu kiểm tra giấy tờ – nỗi lo lắng của chúng tôi về con tàu không hề giảm bớt, mà đúng hơn là ngày càng tăng lên, bởi vì nhìn cho kỹ, chúng tôi phát hiện ra ngày càng nhiều lỗi cả ở thân tàu lẫn trên boong. Vài gang tay dưới mũi tàu có một lỗ tròn, như có đạn đại bác bắn trúng, trên boong đuôi tàu thiếu vài tấm ván, thành cabin lái không kính cửa sổ và cứ thế, chưa kể đến những sợi dây neo đã nát mục cả; hơn nữa, một trong những cọc neo đã bị bung ra một phần khỏi bê tông của bến tàu như thể bị một con vật hung dữ dưới lòng đất tấn công. Chúng tôi chờ đợi, càu nhàu khi chịu gió lạnh cắt da, và khi hiểu rằng một cuộc khám soát kỹ hơn có thể biến sự kinh ngạc ban đầu thành một cơn thịnh nộ với kết quả không lường được, và khá nguy hiểm, thay vì hành động – chúng tôi bắt đầu nguyền rủa con tàu bằng những lời lẽ ngày càng thậm tệ, điều này làm cho chúng tôi thấy được bảo vệ theo cách nào đó và mặt khác mang lại cho chúng tôi một cảm giác giải thoát vui vui không rủi ro gì lắm. Đã lâu lắm chúng tôi không biết đến một cảm giác như vậy, tới nỗi thỉnh thoảng, ngay cả bọn có vẻ lầm lì nhất cũng xen vào, thêm vào đây đó vài lời bình luận, thành thử sau những câu cảm thán như «Bà nội cha con tàu khốn kiếp!» hay «Tàu với chả thuyền!» hay «Đống sắt vụn gớm ghiếc!» chúng tôi cảm thấy khoan khoái chút đỉnh và bắt đầu nhìn con tàu đang cọt kẹt, kêu răng rắc lắc lư dưới kia trìu mến hơn và với một cảm giác thuộc về nhau như vẫn thường gắn kết chúng ta, chẳng hạn, với một món đồ vặt nào đó chúng ta mang trong túi. Và khi từ hai con phố chạy song song về phía «bến tàu của chúng tôi» gần như cùng lúc xuất hiện và phanh kít lại bên cạnh nhóm chúng tôi đang hơi tản mác hai chiếc xe địa hình của EVA, chúng tôi đã chắc chắn rằng «con tàu này của chúng tôi sẽ không bỏ rơi chúng tôi»... Xuất hiện đột ngột của lính EVA không làm chúng tôi quá lo, mà đúng hơn, là gây ra một cảm giác nửa hài lòng nửa tức, và chúng tôi chỉ xếp thành hàng hai bắt buộc theo tiếng hét của viên phó chỉ huy phụ trách đơn vị. Vài năm trước, tất nhiên, hiện diện của một bộ quân phục trắng hoặc một chiếc xe địa hình đã đủ để chúng tôi nép vào tường mà tim đập thình thịch, mồ hôi túa ra vì hãi, nhưng kể từ khi không chỉ phần lớn quân đội mà cả bộ tham mưu cũng rút đi và chỉ còn lại đội đặc nhiệm này – một đội đặc nhiệm chẳng có [phẩm cách] gì đặc biệt để mà quản lý việc di tản của bọn người tụt hậu, trật tự sụp đổ, hỗn loạn ngự trị, vài đứa trẻ mặc những bộ quân phục từng đáng sợ và thậm chí không còn đi cùng thông dịch viên nữa, vì để cướp bóc thì đâu cần lời, đến nỗi cái tàn ác trước đây chỉ còn lại những tiếng la gào, những đặc điểm bên ngoài trước đây, rất chính xác, của các hoạt động điển hình chỉ còn lại những cử động «chớp nhoáng», trống rỗng, tuyệt vọng, nực cười trong vô định. Tuy nhiên, mặc dù qua kinh nghiệm chúng tôi biết rằng bộ máy hiện tại chỉ còn là bóng mờ của bộ máy cũ, từng hoạt động trơn tru như một cỗ máy được bôi dầu, chúng tôi nghĩ rằng ngay cả như vậy họ cũng sẽ suy nghĩ lại và nhanh chóng giải quyết các thủ tục cuối, mà mặt khác, cũng cần gì nữa. Nhưng mãi không có gì xảy đến. Từ một trong những chiếc xe địa hình, họ đưa xuống bốn năm thường dân, những người đi ngang qua chúng tôi, đầu cúi gằm, chân không vững, không một lần ngẩng đầu lên, và họ được đưa lên tàu. Sau đó, họ kiểm tra kỹ lưỡng đồ đạc của chúng tôi và vì không tìm thấy thứ gì họ thích, họ tức giận ném vài chiếc vali và túi xách xuống nước. Tiếp theo, họ đứng sau lưng người này người kia vài lần, nhưng ngay cả việc trừng phạt những người thì thầm họ cũng không làm được, và sự thật là họ cũng không thể buộc tội ai một tội danh nghiêm trọng hơn. Sự bất lực của họ khiến chúng tôi buồn bã vì chúng tôi nhận ra rằng họ không thể hiểu được sự phản kháng ngoan cường trước đây của chúng tôi theo thời gian đã biến thành một thái độ sẵn sàng hợp tác dứt khoát, điều mà chắc chắn sẽ làm tê liệt một cơ quan mà đối với hoạt động của nó, sự tồn tại của một sự đối lập liên tục còn quan trọng hơn cả chiến thắng. Khi mọi sự đã trở nên rất khó chịu đối với họ, họ không còn cách nào khác ngoài việc bắt đầu yêu cầu giấy tờ của chúng tôi; chúng tôi phải xếp hàng lại, lần này là từng người một, trước cầu tàu, và khi đó họ không còn bận tâm đến việc hàng của chúng tôi tan rã chỉ sau vài phút, hệt một đàn cừu mệt mỏi buồn ngủ hơn là một nhóm người có trật tự. Việc nhận dạng chỉ tổ làm khó nhau, vì đối với chúng tôi, việc họ chấp nhận giấy tờ nào cũng không quan trọng: cả danh tính lẫn con người chúng tôi đều không còn đặc biệt quan trọng nữa. Giấy tờ chả nói lên điều gì, vì ngay cả chúng tôi cũng không thể thực sự xác định được đâu là thật và đâu là giả; chúng tôi cho rằng bất kỳ cái tên nào, bất kỳ dữ liệu nào cũng có thể liên quan đến chúng tôi, và vì khó quyết định «chúng tôi nên là ai», chúng tôi chọn giữ lại tất cả các giấy tờ đã tích lũy theo thời gian, rất nhiều. Con tàu, nơi chúng tôi được đưa lên từng người một, không có dấu hiệu sắp khởi hành; mặc dù trên đài chỉ huy đã có đèn sáng, chúng tôi nản chí nhìn hai thường dân đang di chuyển lảo đảo bên trong và, theo mọi dấu hiệu, đang loay hoay nhấn các nút và gạt các cần điều khiển một cách hú họa, tin vào sự ngẫu nhĩ, vào hên xui để tìm ra thao tác đúng; còn hai hoặc ba thường dân kia, họ đã biến mất từ lâu dưới đáy tàu, nơi chắc chắn họ được cử đến để sửa chữa những hỏng hóc rõ ràng của máy móc, dẫu chúng tôi chắc cú sẽ thắng nếu cược rằng điều đầu tiên những kẻ lười biếng đó làm ở đó là tìm một chỗ thích hợp để ngủ suốt chuyến đi (và thực tế đúng là thế). Trong cảnh huống vô vọng đó, chúng tôi thực sự ngạc nhiên khi cảm nhận được sau khoảng nửa giờ một sự rung động nhẹ dưới chân và sau đó nghe thấy, không chút nghi ngờ, tiếng động cơ ì ạch; hai thường dân trên đài chỉ huy nhìn nhau và gật đầu hài lòng, và chúng tôi cũng cảm thấy nhẹ nhõm phần nào khi nhìn thấy họ, vì chúng tôi ghê tởm ý nghĩ có lẽ phải tiếp tục ở lại nơi này một khi không còn cách nào khác ngoài việc phải ra đi. Kỳ lạ thay, vì dường như không còn trở ngại nghiêm trọng nào cho chuyến đi của chúng tôi và chắc chắn rằng con tàu của chúng tôi ít nhất cũng có thể hoạt động, chúng tôi đột nhiên mất hết kiên nhẫn và cảm thấy vô cùng quan trọng cái việc không cần chờ đợi thêm một phút nào nữa và khởi hành ngay lập tức, và những phút đó càng trở nên không thể chịu đựng nổi khi chúng tôi còn tin chắc rằng phần lớn mọi người vẫn chưa đến, do đó còn phải chờ đợi thêm vài giờ nữa. Vẻ bề ngoài cũng củng cố sai lầm của chúng tôi: những người lính EVA vẫn thờ ơ, bình tĩnh, im lặng đứng quanh những chiếc xe địa hình trên bến tàu, một người châm thuốc lá, đến nỗi chúng tôi hoàn toàn có thể tin rằng họ cũng đang chuẩn bị cho nhiều giờ chờ đợi, dẫu trên thực tế đó chỉ là một biện pháp an ninh. Chúng tôi thậm chí còn không nghĩ đến khả năng đó; lo lắng, căng thẳng, chúng tôi dán mắt vào hai con phố dẫn ra bến tàu và căm giận nghĩ đến lũ đàn ông đàn bà đã ngủ quên và không biết đến bao giờ mới chịu xuất hiện ở bến tàu. Chúng tôi đứng đó như đang nhìn vào những miệng hầm tối om mà cuối cùng những người đó sẽ phải chui ra. Theo thời gian, chúng tôi đã hài lòng chỉ với một người, và sự căm ghét của chúng tôi nhanh chóng biến thành lo lắng và ý nghĩ về một thủ đô có lẽ hoàn toàn hoang vắng và bị bỏ rơi trở nên đáng sợ; một số người chen chúc chỗ lan can, mắt chúng tôi hoa lên vì nhìn quá nhiều, mặc dù quá vô ích, vì không ai đến. Sau đó, khi viên phó chỉ huy EVA ra hiệu – một cách giễu cợt – cho hai thường dân (những người kia đã bị nuốt chửng bởi lòng tàu) và hai người đó liền thả dây và nhổ neo, tất cả chúng tôi đều ở trên boong, mắt dán chặt vào những con phố dẫn ra bến, và chúng tôi thậm chí còn không nghĩ rằng mình đang khởi hành, vì chúng tôi cần thời gian để đánh tráo cái niềm phi lý rằng có những người ở lại vĩnh viễn trong thành phố cho một niềm phi lý khác: cái trống rỗng điên rồ của một thành phố hoang. Mấy kẻ trong chúng tôi mới thở phào khi cuối cùng không còn nhìn thấy những chiếc xe địa hình và đơn vị thờ ơ nữa và thậm chí còn cố gắng thể hiện điều đó bằng cách nào đó, nhưng phần lớn chỉ nhận thức được những gì đang xảy ra khi đột nhiên – «gần như cùng lúc» – chúng tôi nhận ra trời đang hửng. Dần dần, chúng tôi ổn định chỗ ngồi ở boong sau và xung quanh đài chỉ huy, cố gắng tìm vị trí thoải mái nhất và một số người thậm chí còn cố gắng bắt chuyện, dù chẳng ăn nhập lắm, với những thường dân để ít nhất cũng có một chút ý niệm về những gì sắp xảy ra với chúng tôi, liệu chúng tôi có dừng lại trước khi đến biên giới hay có lẽ về sau, liệu chúng tôi có nên hy vọng giành được lợi thế nào đó trên con tàu của mình, con tàu mà nói gì thì nói vẫn thuộc thẩm quyền của EVA, nhưng không có hiện diện thực sự của họ. Chúng tôi không còn ngạc nhiên khi mình quá mất công và, nói thật, chúng tôi không biết liệu có tốt hơn không nếu không hiểu gì cả. Ai có đồ ăn thì ăn một chút, người thậm chí còn chợp mắt, nhưng sau đó tất cả chúng tôi đều nhìn mãi vào cái phong cảnh trôi qua từ từ, đường viền lởm chởm ngoằn ngoèo các trạm gác, hình dạng cánh bướm của các căn cứ phòng thủ nhô lên phía xa, những gợn sóng thoai thoải các đường băng cũ nứt nẻ vì hạn hán, những ký ức về ngàn thông cháy rụi trên những ngọn đồi ngày càng thường xuyên xuất hiện, chúng tôi lắng nghe tiếng gió hú và tiếng động cơ đều đều, tiếng rì rầm của sông Danube quanh cái thân tàu móp, và chỉ thỉnh thoảng mới phá vỡ được im lặng bao trùm lấy chúng tôi, bởi những điềm báo xấu thoáng qua của một số người kiệt sức. Con tàu của chúng tôi tiến lên ngược dòng với sự bình tĩnh tương tự, và vì đích đến thì như nhau, mặc dù hướng đi ngược lại, sự chú ý của chúng tôi dần tập trung vào những vật thể chúng tôi nhìn thấy trôi qua: những chiếc bồn rửa mặt rẻ tiền gỉ sét mắc cạn trên bờ, những tủ lạnh bếp dầu bị moi ruột mắc kẹt trong đá, những mảnh cây, lốp xe, ghế trôi nổi, những thùng tôn, đồ chơi nhựa, xác những con hoẵng, xác chó hay xác ngựa, đến nỗi bất cứ thứ gì xuất hiện gần cũng ngay lập tức thu hút sự chú ý ngày càng mãnh liệt của chúng tôi, tất nhiên, cho đến khi chúng tôi nhận ra rằng sự tò mò, sự quan tâm của chúng tôi, hơn nữa, đôi khi cả lòng trắc ẩn ấy đơn thuần là do hướng đi của chúng. Giấc ngủ không lâu sau đã chiến thắng chúng tôi; ai có thể thì lấy gì đó đắp lên người; ai không có thì cố gắng tìm một góc khuất gió trên boong và co ro hết mức có thể, tay đút túi; chỉ còn lại hai thường dân thức trên đài chỉ huy được chiếu sáng và hài lòng quan sát mặt nước phẳng lặng trải dài trước mắt chúng tôi, bị mũi tàu rẽ đôi. Đêm nữa lại xuống, chúng tôi vẫn nằm đó, lao đao vì mệt, và chỉ có một tiếng rì rầm trầm đục vang lên khi một người trong chúng tôi đột nhiên ngẩng đầu, ngồi dậy, đi về phía đuôi tàu và, chỉ tay vào phong cảnh đang biến mất mãi mãi trong bóng tối kín trùm, kêu lên nhẹ nhõm mà cay đắng: «Nhìn kìa, đó từng là nước Hung».
* Bản dịch những trang đầu và cuối của truyện ngắn này được thực hiện cùng với những người tham gia hội thảo dịch thuật Hungary-Tây Ban Nha được tổ chức tại Nhà Dịch thuật Balatonfüred, Hungary, với hiện diện của tác giả. (Ghi chú của người dịch tiếng Tây Ban Nha).
——
Giới thiệu về tập truyện từ BTV Tây Ban Nha
Marta Rebón
Nếu tôi muốn trích dẫn nguyên văn một câu từ bất kỳ câu chuyện nào trong Relaciones misericordiosas – và đây là một đặc điểm chung trong toàn bộ tác phẩm của László Krasznahorkai (Gyula, 1954) -, tôi sẽ nhận ra rằng độ dài trung bình của chúng vượt quá mức thông thường đến nỗi tôi sẽ phải hy sinh quá nhiều không gian.
Bản gốc được xuất bản vào năm 1986, khi Hungary vẫn còn là một nước cộng hòa nhân dân, nhưng cái bóng của Moskva đã bắt đầu mờ nhạt. Đó là thời kỳ mà bầu không khí được ghi lại trong câu chuyện mở đầu, [tức truyện Trên chuyến tàu cuối], được Béla Tarr chuyển thể phim năm 1990, trong đó một nhóm người, dưới sự giám sát của lực lượng trật tự, chờ đợi trong bóng đêm, cho đến khi bình minh ló rạng, để lên con tàu sẽ đưa họ theo sông Danube đến nước ngoài – dường như chẳng quan trọng là đi đâu – như thể họ là những người cuối cùng rời bỏ thủ đô, mệt mỏi vì sống trong “cái trống rỗng điên rồ của một thành phố hoang”.