
Tiếp nhận văn chương Mỹ Latin ở Hungary
Zsuzsanna Csikós, Đại học Szeged, Hungary
Bạch Dương chuyển ngữ từ tiếng Tây Ban Nha, “La recepción del boom hispanoamericano en Hungría: algunas aportaciones”, Cuadernos del CILHA, vol. 19, núm. 1, pp. 17-34, 2018
Các tên tác phẩm gốc được người dịch chú thích về năm in lần đầu, thông tin không có trong văn bản gốc
Bài viết này nhìn vào tiếp nhận của Hungary đối với các tác phẩm văn học của bốn tác giả thuộc trào lưu bùng nổ văn học Mỹ Latinh từ những năm 1960 cho đến ngày nay. Sau khi tóm tắt ngắn về tình hình xuất bản sách ở Hungary trong thời kỳ Xô Viết cho đến năm 1990 và thời kỳ dân chủ, bài viết trình bày các ấn bản tiếng Hungary các tác phẩm tự sự của Gabriel García Márquez, Julio Cortázar, Mario Vargas Llosa và Carlos Fuentes. Bài viết đi sâu vào sự hiện diện của bốn tác giả này trên các trang của Nagyvilág, một trong những tạp chí văn học uy tín nhất trong giai đoạn nói trên, đồng thời so sánh các bài phê bình, điểm sách và phỏng vấn liên quan đến họ. Bài viết cũng bao gồm thư mục các tác phẩm của bốn tác giả đã được dịch sang tiếng Hung.
Giới thiệu:
Đằng sau tiêu đề của bài viết này ẩn chứa một chủ đề rất phong phú nhưng cho đến nay vẫn ít được nghiên cứu ở Hung. Có rất ít bài viết dành riêng để bình luận về sự tiếp nhận của Hungary đối với văn xuôi Mỹ Latinh mới, mặc dù chúng ta có một lượng lớn tài liệu về chủ đề này. [..]
Cuốn cẩm nang đầu tiên viết bằng tiếng Hungary về lịch sử văn học Mỹ Latinh mãi đến năm 2005 mới được xuất bản. Công trình của László Scholz[1], A spanyol-amerikai irodalom rövid története (Lược sử văn học Tây Ban Nha-Mỹ) bao gồm một thư mục phong phú về các bản dịch tác phẩm văn học của các tác giả Mỹ Latinh và theo nghĩa này, tác phẩm cũng được coi là tiên phong ở Hungary[2]. Trong một cuộc phỏng vấn nhân dịp xuất bản cuốn sách, Scholz nói: mặc dù các tác giả của trào lưu bùng nổ rất nổi tiếng ở Hungary, nhưng hình ảnh chung về văn học châu Mỹ vẫn còn khá sơ sài, cả do thiếu các bản dịch tác phẩm từ các thời kỳ trước, lẫn do thiếu các bài phê bình dịch thuật Tây Ban Nha-Mỹ và các đóng góp về sự tiếp nhận văn xuôi Tây Ban Nha-Mỹ mới (Pósa, 2005).
Bài viết của chúng tôi bao quát lịch sử ngót sáu chục năm, từ năm 1960 cho đến ngày nay. Giai đoạn này được chia thành hai thời kỳ lịch sử khác biệt cơ bản trong lịch sử Hungary: thời kỳ Xô Viết, chính phủ János Kádár và Hungary dân chủ sau khi thay đổi chế độ vào năm 1990. Sau khi củng cố quyền lực Xô Viết bị lung lay bởi Cách mạng năm 1956, chế độ Kádár trở thành một chế độ chuyên chế mềm dựa trên một thỏa hiệp xã hội ngầm: chính quyền không kiểm soát lĩnh vực riêng tư của người dân nếu người dân rút lui khỏi chính trị. Đồng thời, hệ tư tưởng duy nhất được chấp nhận vẫn là chủ nghĩa Mác-Lênin. Toàn bộ đời sống văn hóa và do đó cả việc xuất bản sách đều hoạt động theo nhiều cơ chế điều tiết và kiểm soát khác nhau. Kiểm duyệt được thay thế bằng chính sách ba chữ “T” (viết tắt của các từ tiếng Hungary: hỗ trợ, dung thứ, cấm đoán) (Bánki, 2007: 217-223). Văn hóa và trong đó có văn chương theo hệ tư tưởng Mác-Lênin với mục tiêu chính là cải biến tư tưởng nhân dân. Cơ chế xuất bản sách hoạt động theo cách ngược lại với bình thường vì các yêu cầu của thị trường và của độc giả bị loại trừ khỏi đó. Trong trường hợp xuất bản một cuốn sách, yếu tố duy nhất quan trọng là tầm quan trọng chính trị-văn hóa của nó. Giá sách không phụ thuộc vào chi phí sản xuất mà phụ thuộc vào nội dung của nó, do đó những cuốn sách rẻ nhất là các tác phẩm từ các nước khác trong khối Xô Viết và đắt nhất là tiểu thuyết trinh thám và phiêu lưu. Văn học nước ngoài nằm ở vị trí giữa trong danh sách giá này. Việc xuất bản sách được tập trung hóa và chỉ đạo từ trên xuống, bởi Tổng cục Xuất bản. Mọi thứ sắp được xuất bản đều được lên kế hoạch và phải qua tham vấn trước. Các nhà xuất bản có một hồ sơ được ấn định nghiêm ngặt, do đó việc xuất bản văn học nước ngoài gần như là độc quyền của Nhà xuất bản Európa. Tuy nhiên, Nhà xuất bản Magvető chuyên về văn chương Hungary đương đại có một loạt sách mang tên Világkönyvtár (Thư viện Thế giới) cũng xuất bản văn học thế giới (Bart, 2000: 12-53).
Trong lĩnh vực báo chí về văn học nước ngoài, tạp chí uy tín nhất là Nagyvilág. Tạp chí được thành lập vào năm 1956 và ngừng hoạt động vào năm 2016 do thiếu kinh phí. Tạp chí tập trung vào văn học đương đại và đăng tải truyện ngắn, thơ, trích đoạn tiểu thuyết, điểm sách và phê bình. Trong thời kỳ Kádár, tạp chí hoạt động như một tiền sảnh của Nhà xuất bản Európa, nhiều khi các trích đoạn, chương sách hoặc truyện ngắn của một tác giả nào đó được đăng tải trước khi tiểu thuyết của họ sắp được dịch và xuất bản.
Đảng Công nhân Xã hội Chủ nghĩa Hungary đã tuyên bố các nguyên tắc của chính sách văn hóa chính thức cũng có giá trị đối với việc xuất bản sách. Không đi sâu vào chi tiết, chúng tôi chỉ muốn đề cập đến hai nghị định của Bộ Chính trị của đảng liên quan đến chính sách xuất bản sách. Nghị định đầu tiên (1960) nhấn mạnh sự cần thiết phải xuất bản văn học nước ngoài theo trường phái hiện thực xã hội chủ nghĩa (dòng văn học riêng của các nước Xô Viết) hoặc có xu hướng hiện thực xã hội (văn học tư sản). Trong nghị định kia (1975), ý chí chính trị được thể hiện còn rõ ràng hơn: thay vì xuất bản văn học tư sản, mục tiêu là giới thiệu văn học của các nước Thế giới thứ ba: hướng sự chú ý của độc giả đến văn học của khu vực thế giới đó có thể là đồng minh của Hungary trong cuộc đấu tranh chống đế quốc. Nghị định kêu gọi sự chú ý đến các dòng văn học hiện thực mới phát triển gần đây ở các nước Thế giới thứ ba (Bart, 2000: 61-83). Khi xem xét các nguyên tắc này, rõ ràng là việc phổ biến văn học Mỹ Latinh mới có những mục tiêu chính trị rất cụ thể: “[…] sự tăng trưởng và phổ biến lâu dài của nền văn học này ở Hungary cũng không phải là kết quả của sự phát triển tự phát mà là của một kế hoạch được hoạch định kỹ lưỡng” (Scholz, 2011: 210).
Sau năm 1990, tiêu chí ý thức hệ chính trị biến mất, số lượng nhà xuất bản tăng lên gấp bội và việc xuất bản sách bắt đầu hoạt động theo yêu cầu của thị trường. Xu hướng chung, vẫn còn hiệu lực cho đến nay là có nhiều sách được xuất bản hơn, nhưng với số lượng bản in ít hơn nhiều so với trước đây. Ngày nay, số lượng bản in trung bình là từ hai đến ba nghìn so với hai mươi lăm đến ba mươi nghìn của những năm 1980[4]. Đồng thời, với sự xuất hiện của nền kinh tế thị trường, trong đó nguyên tắc lợi nhuận dường như ghi đè lên mọi thứ khác, các ấn bản ngày càng trở nên cẩu thả hơn, bởi vì các nhà xuất bản thay vì giao cho các độc giả chuyên nghiệp sửa các bản dịch thì lại sa thải họ[5]. Nảy sinh trường hợp kỳ lạ là các ấn bản thời Xô Viết đôi khi lại khắt khe hơn vì có các biên tập viên kiểm soát, những người so sánh văn bản gốc với văn bản dịch, chăm chút văn bản tiếng Hungary, sửa lỗi đánh máy, v.v. [6]. Nhiều nhà xuất bản mới thành lập không có đủ kinh nghiệm và thường thiếu vốn cần thiết đã xuất bản sách với sự tài tử đáng kinh ngạc như Péter Bikfalvy (1997: 334) đề cập liên quan đến việc xuất bản tiểu thuyết La guerra del fin del mundo (Cuộc chiến nơi tận cùng thế giới) của Mario Vargas Llosa. Đó là một xu hướng chung là xuất bản sách với bìa rất bắt mắt, nhưng trên giấy chất lượng thấp.
Trên lĩnh vực báo chí, tạp chí văn học Nagyvilág vẫn tiếp tục là một điểm tham chiếu trong việc giới thiệu những tác phẩm mới của văn học thế giới sau năm 1990. Tuy nhiên, sự thiếu hụt kinh phí và sự bảo trợ của nhà nước ngày càng giảm đã gây ra ngày càng nhiều khó khăn và, như chúng tôi đã đề cập, tạp chí đã ngừng xuất bản vào năm 2016.
Xét đến khối lượng tài liệu mà chúng tôi có, trong bài viết này, chúng tôi sẽ giới hạn ở việc phác thảo sự tiếp nhận của Hungary đối với các tác phẩm của Gabriel García Márquez, Julio Cortázar, Mario Vargas Llosa và Carlos Fuentes. Cùng với việc tập trung vào hoàn cảnh xuất bản tiểu thuyết, tập truyện ngắn và các tập tiểu luận của họ trong suốt giai đoạn đã đề cập, chúng tôi cũng sẽ cố gắng tóm tắt sự hiện diện của bốn tác giả này trên tạp chí Nagyvilág.
Gabriel García Márquez
Hiện diện của văn chương Gabriel García Márquez trong đời sống văn hóa-văn học Hungary rất rõ nét trong suốt giai đoạn được xem xét bất chấp một số hoàn cảnh khá bất lợi. Năm 1957, García Márquez thực hiện một chuyến đi qua các nước thuộc khối Xô Viết và tóm tắt kinh nghiệm của mình trong một tập phóng sự mang tên De viaje por los países socialistas: 90 días en la Cortina de hierro (Du hành qua các nước xã hội chủ nghĩa: 90 ngày sau Bức màn sắt). Chương XI “Yo visité Hungría” (Tôi đã đến thăm nước Hung) đề cập đến tình hình chính trị Hungary vài tháng sau thất bại của Cách mạng năm 1956. Márquez đưa ra những lời phê bình gay gắt đối với chế độ Kádár. “Ngờ vực và sợ hãi xuất hiện ở khắp mọi nơi, cả trong chính phủ lẫn trong dân chúng,” ông nhận xét về tình hình chung của đất nước (Márquez, 2017: 145-165). Vài tháng sau, nhân dịp cựu thủ tướng Imre Nagy bị hành quyết vào ngày 16 tháng 6 năm 1958, ông xuất bản một bài báo khác có tựa đề “Nagy ¿héroe o traidor?” (Nagy, anh hùng hay kẻ phản bội?) trong đó ông gọi việc hành quyết này là một vụ ám sát chính trị (173)[7]. Xét đến việc Márquez là nhà cách mạng đấu tranh tích cực nhất cho hệ tư tưởng cánh tả trong số bốn tác giả, tình bạn lâu dài của ông với nhà lãnh đạo Cuba, Fidel Castro, cũng rất nổi tiếng, ý kiến của ông liên quan đến chính phủ Kádár có vẻ khá mâu thuẫn, đặc biệt nếu chúng ta xem xét rằng loạt phóng sự và bài báo này đã được tái bản vào những năm 1970. Dù sao đi nữa, Márquez chưa bao giờ quay lại thăm Hungary.
Quay trở lại với các ấn bản tiếng Hung tác phẩm Márquez, ta thấy toàn bộ truyện của nhà văn Colombia đã đều được xuất bản bằng tiếng Hungary, và hầu hết các tác phẩm của ông đều có nhiều lần tái bản và tái ấn. Trăm năm cô đơn (1967) xuất hiện vào năm 1971, bốn năm sau bản gốc[8]. Cuốn tiểu thuyết cho đến ngày nay đã có 17 lần tái bản và tái ấn bởi bốn nhà xuất bản nhưng với cùng một bản dịch. Trong cuốn sách của mình về García Márquez, Katalin Kulin (1977: 9) cho rằng thành công của cuốn tiểu thuyết ở Hungary chủ yếu là do khả năng biến mọi sự kiện thành một giai thoại, một thể loại có truyền thống lâu đời trong văn học Hungary. Cuốn tiểu thuyết nổi tiếng thứ hai của Márquez là Tình yêu thời thổ tả (1985/1990)[9] với mười bốn lần tái bản và tái ấn. Các tiểu thuyết khác của Márquez có từ hai đến bốn lần xuất bản. Ngoại trừ các tác phẩm đầu tay của Márquez, Bão lá (1955/1998), Giờ xấu (1962/1975), Ngài đại tá chờ thư (1961/1975) và Ký sự người thủy thủ đắm tàu (1970/1996), các tiểu thuyết khác của nhà văn đều được dịch gần như ngay lập tức, kể cả hồi ký của ông, Sống để kể lại (2002/2003)[10].
Trong những năm 1970, các truyện ngắn của ông thường xuyên được đăng trên Nagyvilág (“Độc thoại của Isabel nhìn mưa ở Macondo”; “Làng này không có trộm”; “Người chết đuối đẹp nhất thế gian”; “Chuyến du hành cuối cùng của con tàu ma”; “Cái chết không ngừng vượt ra ngoài tình yêu”; “Câu chuyện buồn và không thể tin được của Eréndira ngây thơ và người bà vô lương tâm của cô”). Hai tuyển tập được xuất bản: Bölömbikák éjszakája (Đêm những con chim Alcaravanes, 1977), Macondóban hull az eső (Độc thoại của Isabel nhìn mưa ở Macondo, 1992), cũng như tập Mười hai truyện phiêu dạt (1992) và tập có tựa đề Giờ xấu (1975) chứa ba tiểu thuyết ngắn của tác giả (Giờ xấu, Bão lá và Ngài đại tá chờ thư). Cùng với các truyện kể, chúng ta cũng có thể đọc các bài phê bình và điểm sách. Một trong những bài đầu tiên là của László András (1969) về Trăm năm cô đơn. Ông mào đầu và kết bài viết của mình bằng cách khẳng định rằng tiểu thuyết của nhà văn Colombia là một trong những tiểu thuyết hay nhất của thế kỷ 20 mặc dù có “nhiều tình tiết đáng ngờ” chống lại nó: nó có một câu chuyện cực kỳ thú vị, hài hước, đầy phiêu lưu và kỳ diệu, và hơn nữa nó là một cuốn tiểu thuyết về một gia đình sau đó sẽ mở rộng thành lịch sử một trăm năm của lục địa. Trong số những tiền bối văn chương của Márquez, ông đề cập đến Cervantes và Faulkner nhưng cũng ám chỉ đến Borges, Carpentier và Lezama Lima. Trong bài điểm sách về Mùa thu của vị trưởng lão, István Fenyő (1980) cho rằng tác phẩm là một bản án chống lại mọi hình thức chuyên chế và rút ra kết luận rằng tác phẩm của Márquez chứng minh chính xác rằng thể loại tiểu thuyết không hề khủng hoảng vì nó có khả năng lên án quyền lực bị bóp méo. Các bản dịch của một số cuộc phỏng vấn được thực hiện với nhà văn Colombia cũng được xuất bản. Trong một trong số đó (Osorio, 1978), Márquez nói rõ về cam kết chính trị-ý thức hệ cánh tả của mình và thái độ đấu tranh của ông, điều này rất phù hợp với bối cảnh ý thức hệ chính thức của Hungary thời bấy giờ. Đây là một trong số ít các bài báo của tạp chí mà chính trị được đặt lên trên văn học và Márquez được giới thiệu như một nhà chính trị chứ không phải một nhà văn.
Thập niên 1980, các trích đoạn từ hai cuốn tiểu thuyết rất khác nhau của nhà văn xuất hiện, Tình yêu thời thổ tả và Cuộc phiêu lưu của Miguel Littín bí mật ở Chile (1986/1987). Trong những năm 1990, các trích đoạn từ các tác phẩm sắp được dịch của ông tiếp tục được xuất bản. Điều này xảy ra trong trường hợp của Tướng quân giữa mê hồn trận (1989/1992), được bổ sung bằng một bài giới thiệu ngắn về cuốn tiểu thuyết. Ferenc Pál (1991), tác giả của lời giới thiệu ngắn này, khẳng định rằng tiểu sử của Simón Bolívar trở thành biên niên sử của một cái chết được báo trước trong tiểu thuyết của Márquez. Chúng ta cũng có thể tìm thấy bản dịch truyện ngắn “Maria dos Prazeres”, một trong mười hai truyện tạo thành tập Mười hai truyện phiêu dạt, và một vài chương của Về tình yêu và những con quỷ khác (1994/1995). Trong các số báo của những năm 2000, sự hiện diện của Márquez không thường xuyên lắm trên các trang của tạp chí. Một bài tóm tắt về cuốn sách tự truyện của ông, Sống để kể lại,[11] một bài tiểu luận khá dài về Trăm năm cô đơn[12] cùng với hai văn bản liên quan đến Hungary đã được đề cập ở trên được xuất bản. Năm 2014, tạp chí đã vinh danh ông bằng một văn bản của Plinio Apuleyo Mendoza được đưa vào Mùi ổi (1982/1997) và một cuộc phỏng vấn do Peter Hess Stone thực hiện[13].
Julio Cortázar
Những bản dịch đầu tiên các tác phẩm của Cortázar xuất hiện vào cuối những năm 1960 trên các trang của tạp chí. Đó là nhiều truyện ngắn như, ví dụ, “Cánh cửa bị nguyền rủa” (Casa tomada, 1946), “Cuộc họp” (Reunión, 1959, trong tập Las armas secretas) hay “Hòn đảo giữa trưa” (La isla a mediodía, 1966, trong tập Todos los fuegos el fuego), tiếp theo trong thập kỷ sau là “Axolotl” [Kỳ nhông Mexico] (Axolotl, 1956, trong tập Final del juego), “Đêm nằm ngửa” (La noche boca arriba, 1956, trong tập Final del juego), “Lilana khóc” (Liliana llorando, 1959, trong tập Las armas secretas), “Cổ mèo đen” (El cuello del gatito negro, 1966, trong tập Todos los fuegos el fuego), “Cuộc họp với vòng tròn đỏ” (Reunión con un círculo rojo, 1977, trong tập Alguien que anda por ahí), “Gió mậu dịch” (Vientos alisios, 1977, trong tập Alguien que anda por ahí), “Em nằm xuống bên anh” (Usted se tendió a tu lado, 1977, trong tập Alguien que anda por ahí).. Bài thơ của tác giả người Argentina viết chống lại cuộc đảo chính quân sự của Augusto Pinochet vào tháng 9 năm 1973, một phần trong chiến dịch làm mất uy tín nền chuyên chế của ông, cũng được xuất bản. Từ tập Octaedro, một bài tóm tắt có thể được đọc trong một trong các số báo năm 1975 của tạp chí, trong đó László Scholz nhấn mạnh tầm quan trọng của hai mô-típ lặp đi lặp lại trong tác phẩm của Cortázar: trò chơi và cái song trùng, tiếp tục chi phối các truyện ngắn của tập sách và khẳng định rằng nghệ thuật tự sự của Cortázar trưởng thành và phong phú hơn bao giờ hết (942). Cũng chính ông là người giới thiệu cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Cortázar được dịch sang tiếng Hungary (Những giải thưởng, 1960)[14]. Ngoài ra, một cuộc phỏng vấn do Ernesto González Bermejo thực hiện với nhà văn về tập Ai đó đang đi loanh quanh (Alguien que anda por ahí) cũng được xuất bản[15].
Đáng để so sánh ba tiểu sử ngắn mà tạp chí đã cung cấp về tác giả vào các năm 1967, 1976 và 1978. Trong phần giới thiệu sớm nhất, Cortázar là một nhà văn hiện thực có những câu chuyện thiếu phong cách thơ mộng hoặc bất kỳ chủ nghĩa siêu thực nào. Trong phần giới thiệu năm 1976, chúng ta có thể đọc rằng trong các truyện ngắn của ông, những vấn đề lớn của sự tồn tại của con người được đặt ra thông qua những trường hợp bệnh lý và mặc dù hậu quả của chúng thường tàn khốc, cách nhìn của ông rất nhân văn. Phần giới thiệu cuối cùng, khi đề cập đến các bản dịch của ông – ông đã dịch, trong số những người khác, Robinson Crusoe và các tác phẩm của Poe, hơn nữa ông còn là thành viên của tòa án Russel[16] – nhấn mạnh sự pha trộn giữa chủ nghĩa vi hiện thực tâm lý và các yếu tố của văn học kỳ ảo và văn học dấn thân xã hội trong văn xuôi của ông[17].
Trong thập niên 1980, trong số những tác phẩm khác, hai truyện ngắn từ tập Chúng ta yêu Glenda biết bao (1980), truyện ngắn cùng tên từ tập Ngoài giờ và một vở kịch phát thanh được xuất bản. Năm 1984, László Scholz viết một bài điếu văn bình luận ngắn gọn về các giai đoạn khác nhau trong sự nghiệp văn học của ông, mà theo Scholz, các giai đoạn này diễn ra theo thứ tự ngược lại với thông thường: khi về già, Cortázar trẻ lại đến mức bắt đầu viết những tập sách non nớt nhất của mình. Sau tám năm im lặng, văn xuôi của Cortázar trở lại các trang của tạp chí vào năm 1993 với một truyện ngắn và hai bài tiểu luận, cả hai đều được xuất bản lần đầu trong tập Vòng quanh ngày trong tám mươi thế giới (La vuelta al dia en 80 mundos) .
Cortázar là tác giả duy nhất trong số bốn nhà văn được dành riêng một số đặc biệt trên Nagyvilág, thạm chí hai số liền. Số đầu tiên ra mắt năm 1998 do László Scholz biên tập, tập hợp tác phẩm đầu tay của ông “Vì một thi pháp” (1954), nhiều văn bản từ tập Vòng quanh ngày trong tám mươi thế giới (La vuelta al dia en 80 mundos), một vài chương có thể bỏ qua của Rayuela, tiểu luận “Một vài khía cạnh của truyện ngắn” và hai truyện ngắn chưa được xuất bản ở Hungary cho đến thời điểm đó, “Vòng Mobius” (từ tập Chúng ta yêu Glenda biết bao) và “Lần thứ hai” (từ tập Alguien que anda por ahí). Lời tựa có tiêu đề “Người khác” một mặt đề cập đến Borges, người mà Cortázar tạo thành một cặp đôi xuất sắc theo Scholz, mặt khác, khối bài viết cố gắng giới thiệu một mảng văn xuôi ít được biết đến của Cortázar cho đến nay ở Hungary, đó là Cortázar nhà tiểu luận. Tuyển tập thứ hai được xuất bản năm 2004 để kỷ niệm 90 năm ngày sinh và 20 năm ngày mất của ông. Lần này, khối bài viết do Andrea Imrei biên tập với tựa đề “Chúng ta yêu Julio biết bao” và giới thiệu một số truyện ngắn và tiểu luận của nhà văn Argentina, một cuộc phỏng vấn và tiểu luận cùng tên của Cristina Peri Rossi. Trong các số báo sau, độc giả cũng có thể làm quen với một số bài thơ của Cortázar. Từ danh sách dài này, có thể thấy rằng văn học của nhà văn Argentina đã có một sự hiện diện rất rõ nét trên tạp chí, bao gồm phạm vi rộng nhất trong sản phẩm văn học của ông và tất cả các thể loại mà ông đã trau dồi.
Các tiểu thuyết của Cortázar được dịch sang tiếng Hungary rất muộn. Cuốn đầu tiên được xuất bản là Những giải thưởng (1960/1979), trong khi Rayuela (1963) và 62/Mô hình để lắp ráp (1968) chỉ được dịch vào năm 2009. Theo Scholz, trong thời kỳXô Viết, Rayuela không được dịch vì chủ nghĩa hiện sinh của nó (2005: 243). Đồng thời, khi tác phẩm cuối cùng cũng ra mắt, tựa đề của nó đã gây ra một cuộc tranh luận nhất định giữa các nhà Tây Ban Nha học Hungary vì dịch giả, János Benyhe, đã chọn một thuật ngữ phương ngữ Hungary ít được biết đến thay vì sử dụng thuật ngữ được chấp nhận rộng rãi hơn trong giới văn học trong nhiều thập kỷ trước đó[18]. Về các tập truyện ngắn của ông, năm 1977, một tuyển tập xuất sắc đã được xuất bản (tái bản năm 1981) mang tựa đề Nagyítás, lấy theo tựa đề bộ phim nổi tiếng thế giới của Michelangelo Antonioni (Blow-up), dựa trên truyện ngắn Las babas del diablo (Nước dãi của quỷ) của tác giả người Argentina. Tập sách giới thiệu một tuyển chọn những truyện ngắn hay nhất của Cortázar có trong các tập Bestiario, Final del juego, Las armas secretas, Todos los fuegos: el fuego, Ultimo round, Octaedro và Historias de cronopios y de famas. Năm 1978, Fantomas contra los vampiros multinacionales (Fantomas chống lại bọn ma cà rồng đa quốc gia) được dịch. Có thể giả định rằng việc xuất bản cuốn sách nửa truyện nửa truyện tranh này được thúc đẩy bởi thực tế là nó bao gồm Biên bản của Tòa án Russel II. Sau một thời gian dài im lặng cho đến những năm 2000, cuối cùng nhà xuất bản Ulpius đã xuất bản tập truyện ngắn đầu tiên của Cortázar, Bestiario (1951/2003). Ngay sau đó, nhà xuất bản L’Harmattan bắt đầu xuất bản toàn bộ tác phẩm của Cortázar và cho đến nay đã cho ra mắt bốn tập truyện ngắn (Nghi lễ, Trò chơi, Lối đi, Ở đó và bây giờ), tập Historias de cronopios y de famas và một tập tiểu luận có tựa đề Về cảm giác không hoàn toàn ở đó (Del sentimiento de no estar del todo)
Mario Vargas Llosa
Sự hiện diện của nhà văn Peru là không đổi trong văn học Hungary từ những năm 1960 cho đến ngày nay. Tất cả các tiểu thuyết của Llosa đều được dịch sang tiếng Hungary và một số tập tiểu luận của ông cũng vậy. Nếu chúng ta xem xét các bản dịch từ quan điểm thời gian, chúng ta có thể nói rằng ngoại trừ một số tác phẩm, đó là những bản dịch gần như ngay lập tức (khi không quá 5 năm giữa việc xuất bản tác phẩm gốc và bản dịch) hoặc trung gian (từ 5-15 năm). Trong trường hợp năm cuốn tiểu thuyết đầu tiên, Thành phố và lũ chó (La ciudad y los perros, 1963/bản dịch Hungary 1971), Ngôi nhà xanh (La casa verde, 1966/bản dịch Hungary 1974), Trò chuyện trong nhà thờ chính tòa (Conversación en La Catedral, 1969/bản dịch Hungary 1973), Pantaleón và khách (Pantaleón y las visitadoras, 1973/bản dịch Hungary 1977), Dì Julia và nhà văn quèn (La tía Julia y el escribidor, 1977/bản dịch Hungary 1983), khoảng thời gian này dao động từ 4 đến 9 năm. Tập Những ông chủ (Los jefes, 1959) được xuất bản ở Hungary năm 1976. Các tiểu thuyết Ai đã giết Palomino Molero? (¿Quién mató a Palomino Molero?, 1986/bản dịch Hungary 1989) và Ca ngợi người mẹ kế (Elogio de la madrastra, 1988/bản dịch Hungary 1990) được dịch gần như ngay lập tức. Các tác phẩm gần đây hơn của Llosa, được xuất bản từ năm 2000, cũng được dịch rất nhanh: sau khi tác phẩm được xuất bản ở nước ngoài, nó ngay lập tức được bắt đầu dịch sang tiếng Hungary và ra mắt cùng năm với tác phẩm gốc hoặc vào năm sau. Điều này xảy ra trong trường hợp của Lễ hội của dê (La Fiesta del Chivo, 2000/bản dịch Hungary 2001), Thiên đường ở góc phố bên kia (El paraíso en la otra esquina, 2003/bản dịch Hungary 2003), Giấc mơ của người Celt (El sueño del celta, 2010/bản dịch Hungary 2011), Người hùng kín đáo (El héroe discreto, 2013/bản dịch Hungary 2015), Năm góc phố (Cinco esquinas, 2016/bản dịch Hungary 2017). Các tiểu thuyết được tái bản nhiều nhất là Pantaleón và những nữ khách và Ca ngợi người mẹ kế, cả hai đều có sáu lần xuất bản, trong khi Ngôi nhà xanh và Trò chuyện trong nhà thờ chính tòa chỉ có hai lần xuất bản. Về các tập tiểu luận của ông, năm tập đã được xuất bản: Thư gửi một tiểu thuyết gia trẻ (Cartas a un joven novelista, 1997/bản dịch Hungary 1999), Israel, Palestine, hòa bình hay thánh chiến (Israel, Palestina: paz o guerra santa, 2006/bản dịch Hungary 2007), Sự cám dỗ của điều không thể (La tentación de lo imposible, 2004/bản dịch Hungary 2006), Hành trình đến hư cấu. Thế giới của Juan Carlos Onetti (El viaje a la ficción. El mundo de Juan Carlos Onetti, 2008/bản dịch Hungary 2010) và Nền văn minh của sự trình diễn (La civilización del espectáculo, 2012/bản dịch Hungary 2014), tất cả đều được dịch gần như ngay lập tức.
Có thể giả định rằng ban đầu, sự nổi tiếng của các tác phẩm của Llosa là do cách trình bày tân hiện thực trong các tiểu thuyết đầu tay của ông. Cái phê phán xã hội gay gắt đối với thực tại Peru thời bấy giờ rất phù hợp với ý hệ văn hóa Hungary để có thể tuyên truyền về sự tàn bạo của xã hội tư sản bóc lột. Đồng thời, cần đề cập rằng các bài tóm tắt và các bài báo liên quan đến các tác phẩm của tác giả được xuất bản trên Nagyvilág đã vượt ra ngoài việc nhấn mạnh cam kết ý thức hệ trong sản phẩm văn học của Llosa và chú ý nhiều hơn đến giá trị thẩm mỹ của các tác phẩm này. Những bài phê bình đầu tiên về Thành phố và lũ chó xuất hiện vào năm 1965, tiếp theo là những bình luận và phê bình về các tiểu thuyết khác của tác giả Peru trong thập niên 1970. Trong một trong những bài đầu tiên này, László András (1965) đã chỉ ra sự tương đồng đáng kinh ngạc của tác phẩm với tác phẩm của tác giả Hungary, Géza Ottlik, Iskola a határon (Trường học ở biên giới, 1959)[20] và tác phẩm của W. Golding, Chúa Ruồi (1954 – Lord of the flies). Ông nhấn mạnh rằng cả ba tác giả đều rút ra những kết luận giống nhau khi tuyên bố sự cần thiết của tình đoàn kết nhân loại trước chế độ độc tài, chủ nghĩa quân phiệt và bạo lực phi lý. Trong bài tóm tắt về Ngôi nhà xanh, Vera Székács (1970) đề cập rằng trong khuôn khổ một tác phẩm hư cấu, Llosa đã thành công trong việc trình bày cả xã hội Peru một cách toàn diện, lẫn vực thẳm ngăn cách người da trắng và người bản địa và sự bất lực của họ. Bà so sánh thế giới của cuốn tiểu thuyết với “hiện thực huyền ảo” của Carpentier và nói rằng Llosa, cũng như Márquez, không theo mô hình tiểu thuyết phi lý không có cốt truyện, cũng không phải là tiểu thuyết mang tính trí tuệ rõ rệt, rất khó tiếp cận, và do đó có thể tiếp cận được với đông đảo độc giả hơn. Cùng với việc xuất bản một trích đoạn ngắn của cuốn tiểu thuyết, một bài báo tổng hợp về sản phẩm văn học của tác giả cũng được ra mắt. Benczik (1973) không chỉ trình bày chi tiết nghệ thuật thi ca của Llosa – trong số đó có lý thuyết tận thế của ông, theo đó các thời đại vĩ đại của tiểu thuyết luôn là tiền đề trực tiếp của một cuộc tận thế xã hội, do đó việc viết một cuốn tiểu thuyết hay tự nó đã là một hành động cách mạng – mà còn bình luận ngắn gọn về tác phẩm tự sự của nhà văn Peru dưới hình thức so sánh và liệt kê tất cả các bản dịch các tác phẩm của tác giả Peru đã được xuất bản bằng tiếng Hungary cho đến thời điểm đó. Về Trò chuyện trong nhà thờ chính tòa, một bài tóm tắt đã được xuất bản vào năm 1974 khi bản dịch tiếng Hungary của cuốn sách ra mắt. Zsuzsa Haraszti nhấn mạnh phương pháp tân hiện thực trong việc trình bày xã hội trong sự phức tạp của nó. Trong bài phê bình năm 1979 về Dì Julia và nhà văn quèn, Mihály Dés đề cập rằng sau thành công nhất trí của ba cuốn tiểu thuyết đầu tiên của nhà văn Peru (Thành phố và lũ chó, Trò chuyện trong nhà thờ chính tòa, Ngôi nhà xanh), đã xuất hiện một số ý kiến phê bình về chất lượng các tác phẩm sau này của ông (Pantaleón và những nữ khách). Theo Dés, Dì Julia rất khác biệt so với các tiểu thuyết trước đó, ông định nghĩa nó là một tác phẩm tự truyện với nhiều yếu tố feuilleton. Đồng thời, đây là cuốn tiểu thuyết thân mật nhất, cân bằng nhất và dễ đọc nhất của tác giả Peru do sự đơn giản về hình thức mà các tác phẩm trước đó của ông thiếu. Đối với Dés, cuốn tiểu thuyết khiến ông nhớ đến các bộ phim của Federico Fellini vì trong cả hai, câu chuyện tương đối nhẹ nhàng lại được đặt trong một bối cảnh lịch sử nặng nề hơn nhiều.
Trong thập niên 1980, hai chương của Cuộc chiến nơi tận cùng thế giới (1981) được xuất bản cùng với lời tựa ngắn của Csaba Csuday (1983), trong đó ông nhấn mạnh tầm quan trọng của bối cảnh lịch sử của cuốn tiểu thuyết, và cho rằng mục tiêu của Llosa là trình bày cách sự khốn cùng, đau khổ và bất lực biến thành một phong trào quần chúng, một bản cáo trạng chống lại chủ nghĩa cuồng tín và không tưởng chính trị. Khi tác phẩm được xuất bản bằng tiếng Hungary, Péter Bikfalvy (1997), trong bài phê bình của mình, đã chỉ ra sự tương đồng của nó với tiểu thuyết Ítélet Canudosban (Bản án ở Canudos, 1970) của nhà văn Hungary Sándor Márai. Các trích đoạn từ Ai đã giết Palomino Molero? cũng xuất hiện cùng với hai bài giới thiệu ngắn về cuốn sách. János Benyhe (1986) nhấn mạnh khả năng của tác giả trong việc không ngừng làm mới chủ nghĩa hiện thực sâu sắc trong các tiểu thuyết của mình trong khi Csaba Csuday (1988) đề cập rằng câu chuyện tàn khốc của Palomino phản ánh rất rõ trật tự giá trị bị bóp méo của xã hội Peru. Cùng với đó, ba trích đoạn từ tiểu thuyết Ca ngợi người mẹ kế cũng được ra mắt.
Trong thập niên 1990, Llosa vẫn tiếp tục là một trong những tác giả được yêu thích của tạp chí: hai cuộc phỏng vấn, một vở kịch, hai bài tiểu luận, một trích đoạn từ tiểu thuyết Lituma ở Andes, và hai bài phê bình văn học sâu rộng – cả hai đều của Péter Bikfalvy – về văn học của nhà văn Peru được xuất bản. Một trong số đó bình luận về Người kể chuyện nhân dịp xuất bản bằng tiếng Hungary (1993) và đề cập rằng bất chấp những lời phê bình tiêu cực về mặt ý thức hệ, chính trị và đạo đức mà tác giả Peru nhận được liên quan đến các tác phẩm gần nhất của ông (Historia de Mayta, ¿Quién mató a Palomino Molero?, Elogio de la madrastra), không nên quên rằng Llosa đã có những mục tiêu văn học khi viết những tác phẩm này. Bikfalvy tập trung bình luận của mình vào mối quan hệ người kể chuyện/người tự sự trong tác phẩm của Llosa. Năm 2000, một khối chuyên đề về văn học Peru thế kỷ 20 với tựa đề “Nếu em ở lại đất nước tôi” do László Scholz biên tập đã được xuất bản. Ở đây chúng ta có thể đọc hai bài viết của Llosa, cả hai đều được xuất bản trong tập Chống lại sóng gió ( Contra viento y marea – 1983). Những lần xuất hiện cuối cùng của Llosa trên tạp chí diễn ra liên quan đến việc ông đoạt giải Nobel. Csaba Csuday (2010) trong bài đóng góp của mình đã biên soạn từ điển Llosa của riêng mình với các mục từ như Nobel, giải thưởng, cam kết, bộ mặt, tính độc đáo. Năm 2012, một trích đoạn dài từ tập tiểu luận Sự thật của những lời nói dối ( La verdad de las mentiras – 1990) được xuất bản.
Vargas Llosa đã được các nhà Tây Ban Nha học Hungary phỏng vấn nhiều lần. Một số cuộc phỏng vấn này sau đó đã được đăng trên Nagyvilág. Cuộc phỏng vấn đầu tiên được László Scholz thực hiện tại Lima vào năm 1977. Tác giả người Peru nói về hai yếu tố mới của tiểu thuyết Pantaleón và những nữ khách – sự hài hước và cấu trúc, quá trình chuyển thể thành phim của nó – và, đây là một điều mới mẻ khác liên quan đến nhà văn đối với độc giả Hungary – về các tập tiểu luận của ông và vai trò của ông như một nhà phê bình văn học. Hai mươi mốt năm sau, cuộc trò chuyện được lặp lại giữa nhà văn người Peru và giáo sư Scholz (1998), lần này là ở Budapest, và họ đã nói chuyện, trong số những điều khác, về tầm quan trọng của các bản dịch. Llosa nói rằng nếu không có các bản dịch, văn học Tây Ban Nha-Mỹ sẽ không thể đạt được tính phổ quát và văn hóa Mỹ Latinh sẽ rất tỉnh lẻ. Theo ông, có một sự tương đồng nhất định giữa các nước Tây Ban Nha-Mỹ và các nước Trung Âu ở chỗ nhiều nhà văn giỏi nhất của cả hai khu vực đều đồng thời là dịch giả và đã dành nhiều thời gian cho các bản dịch văn học[21]. Các bản dịch của các cuộc phỏng vấn khác được thực hiện với Llosa bởi các trí thức nước ngoài cũng không thiếu trên tạp chí. Cuộc phỏng vấn thú vị nhất dường như là cuộc phỏng vấn mà đạo diễn người Tây Ban Nha, Luis Berlanga, đã thực hiện với ông về văn học khêu gợi vào năm 1988[22].
Nhà văn Peru đã đến Hungary nhiều lần: trong số đó, ông là khách mời danh dự của Hội Sách Budapest năm 2003 và cùng năm đó ông nhận Giải thưởng Budapest. Năm 2015, ông trở thành Tiến sĩ Danh dự của Đại học Eötvös Loránd. Ông có mối quan hệ rất tốt với nhà văn Hungary Árpád Göncz, tổng thống đất nước từ năm 1990 đến năm 2000. Việc tìm thấy tiếng nói chung không khó vì cả hai đều là chính trị gia và nhà văn. Trong một bài báo của mình có tựa đề Người sống sót, khi gợi lại những khoảnh khắc quan trọng nhất trong cuộc đời Árpád Göncz, Llosa đã ca ngợi khả năng của nhà văn Hungary trong việc biến mình thành một tác nhân có năng lực trong đời sống chính trị của xã hội “với uy tín đạo đức từ quá trình hoạt động và tài năng của những người sáng tạo, những đức tính của sự khoan dung, chủ nghĩa đa nguyên, sự cai trị của pháp luật và tự do”.
Carlos Fuentes
Trong số bốn tác giả, ông là người ít được biết đến và dịch thuật nhất ở Hungary, mặc dù những bản dịch đầu tiên các tác phẩm của Fuentes cũng đã ra mắt vào những năm 1960. Trong số các tiểu thuyết của ông, độc giả Hungary chỉ có thể đọc được năm cuốn: Miền đất trong suốt nhất (La región más transparente, 1958/bản dịch Hungary 1980), Cái chết của Artemio Cruz (La muerte de Artemio Cruz, 1962/bản dịch Hungary 1966), Chiến dịch (La campaña, 1990/bản dịch Hungary 1995), Những năm tháng với Laura Díaz (Los años con Laura Díaz, 1999/bản dịch Hungary 2003) và Diana hay nữ thợ săn cô độc (Diana o la cazadora solitaria, 1994/bản dịch Hungary 2005). Danh sách này có vẻ khá tùy tiện và rất không đầy đủ. Tác phẩm tham khảo của ông, Cái chết của Artemio Cruz, sớm được dịch, nhưng cuốn tiểu thuyết đầu tay của tác giả, Miền đất trong suốt nhất chỉ được dịch sau hai mươi hai năm. Đầu những năm 2000, Nhà xuất bản Ulpius-ház dự định xuất bản nhiều tiểu thuyết của Fuentes nhưng cuối cùng chỉ có hai cuốn ra mắt, Những năm tháng với Laura Díaz và Diana. Dù sao đi nữa, đây là hai cuốn tiểu thuyết nhẹ và dễ đọc nhất trong văn nghiệp của tác giả, một yếu tố có thể đã thúc đẩy việc xuất bản chúng bằng tiếng Hungary. Tất cả các tiểu thuyết được chuyển ngữ chỉ có một lần xuất bản ngoại trừ Cái chết của Artemio Cruz có hai lần.
Trên Nagyvilág, một trích đoạn từ tiểu thuyết Miền đất trong suốt nhất với tựa đề “Gervasio Pola” được xuất bản năm 1966, kèm theo một đoạn giới thiệu. János Benyhe, dịch giả của văn bản, tóm tắt ngắn gọn sự nghiệp văn học của tác giả Mexico và đề cập rằng Cái chết của Artemio Cruz sẽ sớm được xuất bản bằng tiếng Hungary, một cuốn tiểu thuyết trong đó nhân vật chính trở thành biểu tượng của Cách mạng Mexico thất bại và của một tầng lớp tư sản tham lam và vô đạo đức. Thông tin thứ hai liên quan đến nhà văn Mexico xuất hiện gần hai mươi năm sau khi truyện ngắn “Ngày của Mẹ” (El día de las madres, từ tập Nước cháy – Agua quemada, 1981) được xuất bản. Từ đó trở đi, trong các thập niên 1980 và 1990, sự hiện diện của Fuentes thường xuyên hơn trên tạp chí: truyện ngắn của ông dành tặng Borges (“Borges en acción”, có thể từ một tuyển tập hoặc bài báo) được xuất bản, và một cột tin nhỏ không ghi tên tác giả về cuốn tiểu thuyết mới của nhà văn Mexico, Gringo Viejo (Gringo viejo, 1985). Một chương từ tiểu thuyết Terra Nostra (1975) cũng xuất hiện và trong khai từ, Ferenc Szőnyi (1988) nhấn mạnh mức độ liên văn bản khá cao của tác phẩm cực kỳ phức tạp này, có xu hướng trở thành một tiểu thuyết toàn diện. Trong số các tham chiếu liên văn bản này, ông nhấn mạnh tầm quan trọng của ba tác phẩm kinh điển của văn học Tây Ban Nha: La Celestina, Don Quijote và huyền thoại Don Juan. Một chương từ tiểu thuyết Constancia và những tiểu thuyết khác cho các trinh nữ (Constancia y otras novelas para vírgenes, 1990) (“Tù nhân ở Las Lomas” – có thể là tên chương “La prisionera de Las Lomas”) và một chương từ Cristóbal Nonato (Cristóbal Nonato, 1987) (“Sáng thế” – có thể là tên chương “Génesis”) cũng xuất hiện. Chương sau có một đoạn giới thiệu trong đó Ferenc Pál (1991) định nghĩa cuốn tiểu thuyết là phiên bản Mexico thế kỷ 20 của Tristram Shandy.
Thập niên 2000, hai bài tiểu luận ra mắt, một bài ca ngợi thể loại tiểu thuyết và bài kia về Frida Kahlo. Trong điếu văn năm 2012, Dávid Zelei gợi lại những khoảnh khắc nổi bật nhất trong nghiệp văn của Carlos Fuentes và gọi ông là nhà biên niên có ý thức nhất, sâu sắc nhất và kiên trì nhất của Indo-Afro-Ibero-America. Cùng số báo này bao gồm năm bài viết của Fuentes, hai chương từ Terra Nostra, một truyện ngắn và hai bài tiểu luận được xuất bản trong tập Tôi tin vào điều này (2002).
Thay lời kết
Tất cả những gì chúng ta vừa nói chỉ là phần nổi của tảng băng chìm. Chủ đề này có nhiều khía cạnh và phương diện, chẳng hạn như ảnh hưởng của văn học Mỹ Latinh đối với văn học Hungary[23], sự hiện diện của các nhà văn thuộc trào lưu bùng nổ và toàn bộ nền văn xuôi mới trên các tờ báo và tạp chí Hungary, phê bình văn học của các nhà Tây Ban Nha học Hungary hay vấn đề dịch thuật, một chủ đề có vẻ khá nhạy cảm. Về vấn đề sau, cần phải xem xét một số yếu tố. Một là trong đa số trường hợp, dịch giả và nhà phê bình là cùng một người: các nhà nghiên cứu Tây Ban Nha của xứ Hungary, chuyên gia về văn hóa và văn học Tây Ban Nha-Mỹ. Một yếu tố khác là tất cả các ấn bản tiếng Hungary các tiểu thuyết của bốn tác giả này đều sử dụng bản dịch đầu tiên, nghĩa là không có cuốn tiểu thuyết nào trong số này được dịch lại[24]. Nhìn chung, chúng ta có thể khẳng định rằng có rất ít bài viết dành riêng để bình luận về chất lượng văn học của các bản dịch này. Tất nhiên, cho đến khi thay đổi chế độ, một bài phê bình như vậy không thể tồn tại. Từ những năm 1990, một số bài đã xuất hiện, chẳng hạn như hai bài báo đã đề cập của Bikfalvy về văn xuôi của Mario Vargas Llosa, đóng vai trò tiên phong về mặt này. Cuối cả hai bài báo, ông đều dành một vài đoạn để bình luận về những quan sát của mình liên quan đến bản dịch. Trong khi trong bài báo đầu tiên (1994), ông chỉ đề cập đến một số sai sót trong việc sử dụng các thuật ngữ tiếng Hungary, thì trong bài báo kia (1997), vấn đề đã xuất hiện trong một bối cảnh rộng hơn nhiều và tác giả bày tỏ mối quan ngại của mình về các bản dịch tiếng Hungary các tác phẩm của Llosa nói chung. Trong số những bài gần đây hơn, đáng chú ý là bài tiểu luận của László Scholz (2011). Ông chỉ ra sự đồng nhất đáng kinh ngạc của các bản dịch sang tiếng Hungary: “[…] nhận thấy sự đồng nhất đáng kinh ngạc của các bản dịch sang tiếng Hungary; các tác giả khác nhau như García Márquez, Borges, J. M. Arguedas, và Barnet dường như chia sẻ một sự tương đồng về văn phong bất ngờ” (205)[25].
Về phê bình văn học, ở đây và bây giờ chúng tôi chỉ muốn đề cập đến những cuốn sách chuyên khảo của các nhà Tây Ban Nha học Hungary đã trình bày chi tiết về văn xuôi của bốn tác giả này. Hai trong số đó ra đời rất sớm, vào những năm 1970: cuốn sách của Zsuzsa Haraszti viết về tác phẩm của Mario Vargas Llosa và cuốn của Katalin Kulin viết về văn xuôi của García Márquez. Cuốn sau cũng có một phiên bản tiếng Tây Ban Nha. Văn xuôi của Julio Cortázar được Andrea Imrei, Attila Csép và Gabriella Menczel bình luận trong khi Zsuzsanna Csikós xuất bản một cuốn sách về Carlos Fuentes[26].
CHÚ THÍCH THEO BẢN GỐC BÀI
[1] László Scholz (1948) là giáo sư của Đại học Eötvös Loránd ở Budapest, dịch giả và nhà dịch thuật học, một nhà Tây Ban Nha học uy tín ở xứ Hung.
[2] Nếu chúng ta xét đến việc cuốn cẩm nang đầu tiên về lịch sử Mỹ Latinh do một tác giả Hungary viết (Wittman, Tibor: Latin-Amerika története [Tạm dịch: Lịch sử Mỹ Latinh]. Budapest: Gondolat, 1971) đã ra mắt trước đó 34 năm, chúng ta có thể thấy sự chậm trễ của chúng ta trong lĩnh vực văn học.
[3] János Kádár (1912-1989) là tổng bí thư đầu tiên của Đảng Công nhân Xã hội Chủ nghĩa Hungary từ năm 1956 đến 1989, nhà lãnh đạo tối cao của đất nước trong giai đoạn nói trên.
[4] Ví dụ, vào năm 1987, Nhà xuất bản Európa đã xuất bản 224 cuốn sách với 5.918.000 bản. Ngày nay, Nhà xuất bản L’Harmattan xuất bản các tác phẩm của Julio Cortázar với số lượng 2.000 bản. Trích ngày 15 tháng 1 năm 2018 từ: https://www.arcanum.hu/hu/online-kiadvanyok/TenyekKonyve-tenyek-konyve-1/1989-46DA/magyarorszag-694A/magyar-tudomany-oktatas-kultura-7044/a-konyvkiadas-adatai-kiadok-szerint-1987-71F8/ và từ: https://haszon.hu/archivum/638-sztarok_bestsellerjei.html
[5] Péter Bikfalvy (1994) nhân dịp bản dịch tiếng Hungary của tác phẩm El hablador (Tạm dịch: Người kể chuyện) của Mario Vargas Llosa đã chỉ ra hiện tượng này, khi ông đề cập rằng, chẳng hạn, có một câu trong văn bản bắt đầu bằng dấu phẩy, hoặc có những lỗi trong việc sử dụng các hậu tố.
[6] Về mặt này, không nên quên rằng nhiều trí thức và văn nhân thuộc diện tác giả bị cấm trong thời kỳXô Viết đã làm dịch giả hoặc làm việc trong các nhà xuất bản với vai trò biên tập viên hoặc người đọc duyệt, và bản thân điều này đã có thể là một bảo đảm nhất định về chất lượng.
[7] Những bài viết này của Márquez không thể được xuất bản trong thời kỳ Kádár vì mọi thứ liên quan đến Cách mạng 1956 đều bị coi là chủ đề cấm kỵ dưới thờiXô Viết. Hai bài báo này xuất hiện lần đầu vào năm 2003 trên tạp chí Nagyvilág và sau đó được đăng lại trong số kỷ niệm năm 2006 được biên soạn để kỷ niệm 50 năm Cách mạng 1956.
[8] Nữ dịch giả Vera Székács đã nhận được cuốn tiểu thuyết từ một người bạn Cuba của mình, bà đã dịch trong hai năm rưỡi, sau đó công việc in ấn kéo dài thêm một năm rưỡi nữa. Trích ngày 10 tháng 1 năm 2018 từ: http://www.origo.hu/kultura/20070309gabriel.html
[9] Ngày đầu tiên chỉ năm xuất bản của tác phẩm gốc, ngày thứ hai chỉ bản dịch tiếng Hungary.
[10] Trong phụ lục, có thể tham khảo tất cả dữ liệu về các ấn bản tiếng Hungary.
[11] Marx, József. “Élet, életmű, alkotás ─Gabriel García Márquez: Azért élek, hogy elmeséljem az életemet” [Tạm dịch: Cuộc đời, sự nghiệp, sáng tạo ─Gabriel García Márquez: Sống để kể lại]. Nagyvilág, số 10, 2004: 856-861.
[12] Sztancsik, Katalin. “A Buendíák magányossága ─Motívumkeresés Gabriel García Márquez Száz év magány című regényében” [Tạm dịch: Nỗi cô đơn của nhà Buendía – Tìm kiếm mô-típ trong Trăm năm cô đơn của Gabriel García Márquez]. Nagyvilág, số 3, 2011: 217-237.
[13] “A valóság igézete”. Peter Hess Stone amerikai publicista interjúja Gabriel García Márquez kolumbiai íróval [Tạm dịch: Sức quyến rũ của thực tại. Cuộc phỏng vấn của nhà báo Mỹ Peter Hess Stone với nhà văn Colombia Gabriel García Márquez]. Nagyvilág, số 6, 2014: 616-628.
[14] Scholz, László. “Cortázar és az ártatlanság” [Tạm dịch: Cortázar và sự ngây thơ]. Nagyvilág, số 12, 1980: 1895.
[15] González Bermejo. “Julio Cortázar: Az írónak joga a játék is” (dịch bởi Ferenc Pál) [Tạm dịch: Julio Cortázar: Nhà văn cũng có quyền được chơi]. Nagyvilág, số 1, 1978: 120-122. Cuộc phỏng vấn này là một phần trong cuốn sách của González Bermejo, Ernesto. Conversaciones con Cortázar (Tạm dịch: Trò chuyện cùng Cortázar). Edhasa, 1978. Trong cuộc phỏng vấn có một chi tiết nhỏ nhắc đến Hungary: Cortázar nói rằng nông dân Hungary và Romania treo những chuỗi tỏi trong nhà để đuổi ma cà rồng vì chúng dị ứng với tỏi.
[16] Tòa án Russell được thành lập để điều tra các tội ác do người Mỹ gây ra trong cuộc chiến chống Việt Nam. Vào năm 1974 (tại Roma) và 1975 (tại Brussels), Tòa án Russell II đã tập trung điều tra tình hình các nước Mỹ Latinh và nhiều vụ vi phạm nhân quyền ở tiểu lục địa này.
[17] Các bài giới thiệu có thể được tìm thấy ở các số báo sau: số 12, 1967: 1919; số 8, 1976: 8; số 1, 1978: 143.
[18] Benyhe nói rằng thay vì hành động nhảy lò cò (saltar), vốn chỉ một chuyển động không có mục đích hoặc tức thời, thì quá trình đi cà nhắc (cojear) – từ được sử dụng trong tựa đề (sánta/cojo) – lại thể hiện tốt hơn tính chất kéo dài của trò chơi. Benyhe, János. ”Ízelítő egy készülő fordításból” [Tạm dịch: Giới thiệu một bản dịch sắp ra mắt]. Korunk, số 11, 2008: 3.
[19] Thiếu bản dịch tác phẩm tự truyện của ông, El pez en el agua (Tạm dịch: Cá trong nước) (1993), mà chỉ có chương đầu tiên được đăng trên một tạp chí văn hóa. “A bácsi, aki az apám volt” (dịch bởi László Scholz) [Tạm dịch: Người đàn ông đó là cha tôi]. Polisz, số 134, 58-71.
[20] Ottlik, Géza. Una escuela en la frontera (Tạm dịch: Ngôi trường ở biên giới). México: Grijalbo, 1975.
[21] Llosa rất có lý về mặt này. Nhiều nhà văn Hungary có thể dành toàn bộ thời gian cho việc dịch văn học trong thời kỳ Kádár.
[22] “Ne zavarjanak, a szexről beszélünk” [Tạm dịch: Đừng làm phiền, chúng tôi đang nói về tình dục] (dịch bởi Csaba Csuday). số 12, 1988: 1839-1842.
[23] Zelei, Dávid. “Van-e értelme Magyarországon spanyolról fordítani? Vitaindító két irodalom kapcsolatáról” [Tạm dịch: Dịch từ tiếng Tây Ban Nha ở Hungary có ý nghĩa gì không? Khơi mào tranh luận về mối quan hệ giữa hai nền văn học]. Lazarillo. 14 tháng 2, 2012. Trích ngày 19 tháng 1 năm 2018 từ: http://www.prae.hu/prae/lazarilloetc.php?menu_id=115&aid=214&type=2
[24] Trong trường hợp truyện ngắn, chúng ta có thể bắt gặp các bản dịch lại.
[25] Cũng đáng nhắc đến cuốn sách A szőnyeg visszája. A spanyol nyelvű irodalmak és a fordítás [Tạm dịch: Mặt trái của tấm thảm. Các nền văn học bằng tiếng Tây Ban Nha và dịch thuật]. Budapest: Palimpszeszt, 2009.
[26] Haraszti, Zsuzsa. A megalázás problematikája Mario Vargas Llosa regényeiben [Tạm dịch: Vấn đề về sự sỉ nhục trong các tiểu thuyết của Mario Vargas Llosa]. Budapest: Akadémiai, 1977; Kulin, Katalin. Creación mítica en la obra de García Márquez (Tạm dịch: Sáng tạo thần thoại trong tác phẩm của García Márquez). Budapest: Akadémiai Kiadó, 1980; Csép, Attila. Julio Cortázar y la narrativa hispanoamericana de su tiempo (Tạm dịch: Julio Cortázar và văn xuôi Tây Ban Nha-Mỹ cùng thời). Szeged: Khoa Nghiên cứu Tây Ban Nha, 1998; Imrei, Andrea. Oniromancia: análisis de símbolos en los cuentos de Julio Cortázar (Tạm dịch: Thuật giải mộng: phân tích các biểu tượng trong truyện ngắn của Julio Cortázar). Budapest: Akadémiai Kiadó, 2002. Imrei, Andrea. Álomfejtés: Julio Cortázar novelláinak szimbólumelemzése (Tạm dịch: Giải mộng: phân tích biểu tượng trong các truyện ngắn của Julio Cortázar). Budapest: L’Harmattan, 2003. Menczel, Gabriella. Incipit y subtexto en los cuentos de Julio Cortázar y Abelardo Castillo (Tạm dịch: Câu mở đầu và ẩn ý trong truyện ngắn của Julio Cortázar và Abelardo Castillo). Budapest: Akadémiai Kiadó, 2002; Csikós, Zsuzsanna. El problema del doble en Cambio de piel de Carlos Fuentes (Tạm dịch: Vấn đề về cái song trùng trong Thay da của Carlos Fuentes). Budapest: Akadémiai Kiadó, 2003.