Sản xuất văn chương Nhật Bản thời Minh Trị  – Atkuso Ueda
Ở bài trước, đã có một tổng quát về việc dịch thuật (nói chính xác hơn là nhập khẩu) văn học Phương Tây ở Nhật Bản thời Minh Trị: sự thay đổi của Nhật đã bắt đầu từ văn chương. Trong bài này, ta sẽ còn thấy cả vai trò cuả Victor Hugo với Nhật Bản.

Sản xuất văn chương Nhật Bản thời Minh Trị – Atkuso Ueda

Xem thêm:

NHẬP KHẨU VĂN CHƯƠNG VÀ TƯ TƯỞNG PHƯƠNG TÂY Ở NHẬT BẢN THỜI MINH TRỊ

 

Giới thiệu của Văn+

“Văn chương” (literature trong tiếng Anh, Bungaku trong tiếng Nhật) có phải là một khái niệm chung nhau giữa tất cả các quốc gia, các nền văn hoá, các thời kỳ? Có lẽ, rất dễ, câu trả lời là không. Nhưng trong sự “không” ấy, những khác biệt của chúng, của quan niệm văn chương từng nước mới là điều đáng chú ý và hấp dẫn hơn cả. 

bài trước, đã có một tổng quát về việc dịch thuật (nói chính xác hơn là nhập khẩu) văn học Phương Tây ở Nhật Bản thời Minh Trị: sự thay đổi của Nhật đã bắt đầu từ văn chương. Trong bài này, ta sẽ còn thấy cả vai trò cuả Victor Hugo với Nhật Bản.

Bài này là phần đề dẫn từ một công trình học thuật chuyên sâu, tập trung phân tích tác phẩm Shōsetsu shinzui (Tinh hoa Tiểu thuyết, 1885-86, còn có bản dịch tiếng Anh là “Essence of novel”) của Tsubouchi Shōyō và vai trò của nó trong việc định hình văn chương Nhật Bản hiện đại. Tác giả lập luận rằng mặc dù Shōsetsu shinzui thường được coi là nguồn gốc của văn chương hiện đại Nhật Bản, và các nhà văn chương sử liên tục đặt nó vào vị trí khởi đầu này, nhưng thực tế là tác phẩm này không được công nhận rộng rãi ngay lập tức sau khi xuất bản vào những năm 1880.

Chúng ta sẽ nhìn lướt cái cách Shōsetsu shinzui đã định nghĩa lại khái niệm shōsetsu (tiểu thuyết), chuyển dịch ý nghĩa của nó từ những tác phẩm mang tính chính trị, lịch sử, hoặc “tầm thường” sang một hình thức nghệ thuật tập trung vào “cảm xúc con người” (ninjō) và “phong tục, tập quán” (fūzoku setai). Điều đáng chú ý là những thuật ngữ này (như ninjō, fūzoku, setai, mosha) đã được sử dụng rộng rãi trong văn giới Nhật những năm 1880, thậm chí trước khi Shōsetsu shinzui trở nên nổi bật, cho thấy một sự thay đổi nhận thức luận rộng lớn hơn trong lĩnh vực văn chương.

Ở xứ Phù Tang ấy, Bungaku (文学, ぶんがく) có nghĩa là văn chương. Đây là một thuật ngữ dùng để chỉ các tác phẩm văn chương, bao gồm tiểu thuyết, thơ ca, kịch nghệ và các thể loại văn học khác. Nhưng thuật ngữ này, ban đầu dường như không tương đương với literature của phương Tây, cho đến khi Nhật Bản nhập khẩu văn chương phương Tây. Sự thể ra sao? Khi nào xảy ra phương trình “bungaku = literature”? 

Bài viết cũng xem xét các yếu tố vĩ mô khác đã ảnh hưởng đến sự hình thành của “văn chương hiện đại”, bao gồm sự thay đổi trong các ranh giới kiến thức học thuật, cuộc đấu tranh giữa các trường phái học phương Tây, học bản địa và Nho giáo, cũng như sự phát triển của hệ thống đại học ở Nhật Bản. Đã nói ở bài trước đó. Chúng ta sẽ liên hệ sự ra đời của “văn chương” với nhận thức mới nổi ở Nhật Bản những năm 1880

Ghi chú thêm về Shōsetsu shinzui [Tinh hoa tiểu thuyết]: đó là một tác phẩm lý luận văn chương nền tảng, thường được coi là nguồn gốc của văn chương Nhật Bản hiện đại. Được Tsubouchi Shōyō viết vào những năm 1885-86, đây là một trong những lý thuyết toàn diện đầu tiên về shōsetsu [nghĩa tương đương với ‘tiểu thuyết’, trong bài sẽ sử dụng nguyên văn thuật ngữ shōsetsu này].

Về giá trị và nội dung, Shōsetsu shinzui có ý nghĩa quan trọng trong việc định hình lại khái niệm và mục đích của tiểu thuyết ở Nhật Bản. Tác phẩm này gồm hai tập: tập đầu tiên trình bày lý thuyết tổng thể về shōsetsu, bao gồm các phần giới thiệu, lý thuyết toàn diện, những thăng trầm, chủ đề chính, các loại hình, và lợi ích của shōsetsu; tập thứ hai tập trung vào các khía cạnh phương pháp luận, đưa ra các quy tắc toàn diện, lý thuyết về phong cách, nguyên tắc cấu trúc, cấu hình tiểu thuyết lịch sử, cấu hình nhân vật chính, và các phương pháp miêu tả.

Điểm nổi bật nhất của Shōsetsu shinzui là sự kêu gọi “chủ nghĩa hiện thực tâm lý”, nhấn mạnh rằng nhà văn phải tạo ra nhân vật dựa trên nguyên tắc tâm lý học, quan sát (bōkan) và miêu tả (mosha) họ “đúng như bản chất của chúng” (ari no mama), thay vì dựa trên các ý niệm đạo đức của người viết. Điều này đánh dấu một chuyển dịch từ giao điều (kanzen chōaku) phổ biến trước đó sang một hướng miêu tả chân thực cảm xúc (ninjō) và phong tục, tập quán (fūzoku setai). Tác phẩm một tuyên ngôn mang tính quy phạm, cố gắng tách biệt thuật ngữ shōsetsu khỏi các câu chuyện hakuwa truyền thống và buộc nó vào với khái niệm “tiểu thuyết” của phương Tây, đồng thời khẳng định shōsetsu là một hình thức kiến thức hợp pháp, độc lập khỏi chính trị và lịch sử. Những nỗ lực lý thuyết của nó được đánh giá tiên tiến chẳng kém, so với các lý thuyết văn chương đương thời ở Âu-Mỹ. [Nếu độc giả muốn so sánh, thì có thể nói đến tiểu luận “Các khía cạnh của tiểu thuyết” của E.M. Forster]

 

Shōsetsu shinzui như là Nguồn gốc Tư tưởng của văn chương Nhật Bản Hiện đại –  Atkuso Ueda

Nguyễn Lan lược dịch từ tiếng Anh, đoạn trích từ sách “Concealment Of Politics Politics Of Concealment: The Production Of Literature In Meiji Japan”,  Stanford University Press 

Tác giả: Atkuso Ueda

Có nói gì đi nữa về sự phát triển văn chương Nhật Bản hiện đại thì cũng sẽ không trọn vẹn nổi, nếu không đề cập đến Shōsetsu shinzui (Tinh hoa Tiểu thuyết, 1885-86) của Tsubouchi Shōyō (1859-1935), tác phẩm luôn được coi là nguồn của văn chương Nhật Bản hiện đại. Mặc dù các nhà văn học sử đã đưa ra nhiều cách diễn giải khác nhau về Shōsetsu shinzui qua nhiều năm, nhưng luận điệu về “sự phát triển” và “tiến bộ” đặt Shōsetsu shinzui ở điểm khởi đầu của cải cách văn chương hiện đại và Shōyō là người sáng lập văn chương Nhật Bản hiện đại là phổ biến.

Tác phẩm nền tảng này là một trong những lý thuyết toàn diện đầu tiên được viết về shōsetsu. Như nghiên cứu xuất sắc gần đây của Kamei Hideo về “Shōsetsu shinzui, “Shōsetsu”ron”, đã chỉ ra, phần lớn những nỗ lực lý thuyết của Shōsetsu shinzui ngang bằng, nếu không muốn nói là tiên tiến hơn, so với các đối tác Âu-Mỹ của nó. Shōsetsu shinzui gồm hai tập, tập đầu tiên gồm sáu phần: “Shogen” (Giới thiệu), “Shōsetsu sōron” (Lý thuyết Toàn diện về Shōsetsu), “Shōsetsu no hensen” (Những thăng trầm của Shōsetsu), “Shōsetsu no shugan” (Chủ đề chính của Shōsetsu), “Shōsetsu no shurui” (Các loại Shōsetsu) và “Shōsetsu no hieki” (Lợi ích của Shōsetsu). Tập thứ hai, tập trung vào các khía cạnh phương pháp luận của việc viết shōsetsu, bao gồm “Shōsetsu hōsoku sōron” (Các Quy tắc Toàn diện của Shōsetsu), “Buntairon” (Lý thuyết về Phong cách), “Shōsetsu kyakushoku no hōsoku” (Nguyên tắc Cấu trúc trong Shōsetsu), “Jidai shōsetsu no kyakushoku” (Cấu hình của Jidai shōsetsu), “Shujinkō no setchi” (Cấu hình Nhân vật chính) và “Jojihō” (Các Phương pháp Miêu tả). Chỉ qua tiêu đề của các phần này, chúng ta có thể thấy nhiều góc độ mà Shōsetsu shinzui tìm cách lý thuyết hóa shōsetsu.

Mặc dù có tính đa chiều, các tham chiếu đến văn bản nền tảng này chủ yếu giới hạn ở tập đầu tiên, và hẹp hơn là ở “Chủ đề chính của Shōsetsu”. Có lẽ đoạn trích được trích dẫn nhiều nhất của Shōsetsu shinzui là đoạn sau từ “Chủ đề chính của Shōsetsu”:

Một nhà văn giống như một nhà tâm lý. Anh ta phải tạo ra các nhân vật của mình dựa trên các nguyên tắc tâm lý học. Nếu anh ta tạo ra, theo thiết kế riêng của mình, các nhân vật đi chệch khỏi cảm xúc con người (ninjō) hoặc tệ hơn là khỏi các nguyên tắc tâm lý học, những nhân vật đó sẽ chỉ là sản phẩm tưởng tượng của nhà văn chứ không phải là những nhân vật thuộc về thế giới con người…. Do đó, nhà văn nên tập trung tài năng của mình vào tâm lý con người. Mặc dù các nhân vật có thể là do anh ta tạo ra, anh ta không được thiết kế chúng dựa trên ý tưởng của mình về tốt xấu hay đúng sai. Thay vào đó, anh ta chỉ đơn giản phải quan sát (bōkan) và miêu tả (mosha) chúng đúng như bản chất của chúng (ari no mama).

Không quá lời khi nói rằng đoạn này đã đưa Shōsetsu shinzui trở thành nguồn gốc của văn chương Nhật Bản hiện đại. Sự tập trung vào lời kêu gọi rõ ràng về chủ nghĩa hiện thực tâm lý, một shōsetsu miêu tả chân thực cảm xúc (ninjō) và phong tục, tập quán (fūzoku setai), chi phối nghiên cứu về Shōsetsu shinzui, trong khi các cuộc thảo luận về những thăng trầm và lợi ích của shōsetsu, chưa kể đến toàn bộ tập thứ hai, lý thuyết hóa thực hành viết shōsetsu, thường bị bỏ qua. Quan điểm tập trung, và như chúng ta sẽ thấy ngay sau đây, mang tính tư tưởng cao về Shōsetsu shinzui như là nguồn gốc của văn chương Nhật Bản hiện đại có thể bắt nguồn từ đầu thế kỷ. Takayama Chogyū, chẳng hạn, trong tác phẩm nổi tiếng “Meiji no shōsetsu” (Shōsetsu thời Minh Trị, 1897) tán thành quan điểm của Shōyō theo cách sau:

Khi Shōyō xuất hiện, xuất bản Shōsetsu shinzui và Tōsei shosei katagi [Tính cách của sinh viên hiện đại, 1885-86], ông đã vạch trần sự sai lầm của chủ nghĩa giáo huấn (kanzen chōaku) và mở đường cho shōsetsu hiện thực (shajitsushō setsu); mọi người sau đó bắt đầu theo đuổi nó, hoàn toàn thay đổi thái độ văn chương.

Chuyện còn kịch tính hơn với sự ra đời của chủ nghĩa tự nhiên và sự xuất hiện của chủ nghĩa hiện thực tâm lý như là chủ đề chính của shōsetsu.

[…]

Đánh dấu sự chuyển đổi từ những giáo điều “lỗi thời” sang  hiện thực tâm lý, Shōsetsu shinzui do đó biểu thị sự phá vỡ các thực hành văn chương “tiền hiện đại”. Một khi câu chuyện như vậy được thiết lập, Shōsetsu shinzui bắt đầu thể hiện các tiêu chí để đánh giá shōsetsu. Nó trở thành một bộ lọc mà qua đó các nhà sử học văn chương định nghĩa các tác phẩm “tiền hiện đại” và “hiện đại”. Câu chuyện này được tái hiện trong suốt thế kỷ XX, và dưới hình thức khác nhau, Shōsetsu shinzui từ đó đã là một địa điểm tư tưởng nơi văn chương Nhật Bản hiện đại được thành lập. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là không có học giả nào đặt câu hỏi về vị thế của Shōsetsu shinzui. Các tác phẩm của các nhà phê bình văn chương Maeda Ai và Kamei Hideo đã, từ những năm 1960, đặt câu hỏi về bước ngoặt đột ngột này sang “hiện đại”. Asukai Masamichi cũng đặt câu hỏi về vị thế nguồn gốc của Shōsetsu shinzui và thay vào đó chỉ định seiji shōsetsu là “khởi đầu của văn chương hiện đại”.  Peter Kornicki cũng tương tự chỉ trích vị trí của Shōsetsu shinzui là nguồn gốc trong cuốn sách của ông, Reform of Fiction in Meiji Japan [tạm dịch: Tái định hình văn chương ở Nhật thời Minh Trị], quyển này thì ông thảo luận về các hình thức “cải cách” khác nhau trong những năm 1880, nhấn mạnh thực tế rằng Shōyō không phải là nhà phê bình đầu tiên hay duy nhất kêu gọi “cải cách văn chương”. Tuy nhiên, trong một thời gian dài, những ngoại lệ này tồn tại song song với nhiều câu chuyện khác về lịch sử văn chương đã củng cố vị thế tư tưởng của Shōsetsu shinzui. Chúng ta đã thấy những nỗ lực ngày càng tăng, đặc biệt là trong những năm 1990 trở đi, để xem xét một cách phê phán các danh mục thay đổi của shōsetsu và bungaku (nay là bản dịch chuẩn của “literature”), do đó đặt câu hỏi về các giả định cơ bản của lịch sử văn chương nằm ở cốt lõi của vị thế Shōsetsu shinzui là nguồn gốc của văn chương Nhật Bản hiện đại: một số ví dụ như vậy ngoài “Shōsetsu”ron của Kamei Hideo đã đề cập trước đó là Fujii Sadakazu, Nihon “shōsetsu” genshi (Nguồn gốc Nguyên thủy của Shōsetsu Nhật Bản, 1995); Noguchi Takeshiko, Shōsetsu (1996); và Suzuki Sadami, Nihon no “bungaku” gainen (Khái niệm “văn chương” ở Nhật Bản, 1998). Những nghiên cứu này đã cho chúng ta phương tiện để đặt câu hỏi về câu chuyện tư tưởng bao trùm Shōsetsu shinzui, mà cuốn sách này mang ơn rất nhiều, nhưng thực tế vẫn là không có chuyên luận văn chương nào khác bị gán ghép tư tưởng như Shōsetsu shinzui, vì nó liên tục được chọn làm địa điểm của “tính hiện đại văn chương” hình thành nên hình thức văn chương Nhật hiện đại.

Cái hay ở chỗ khi chúng ta chuyển sự chú ý đến Nhật  những năm 1880, thấy rằng Shōsetsu shinzui không được văn giới công nhận ngay lập tức sau khi xuất bản, cũng như không đạt được vị thế nền tảng mãi cho đến sau này. Kōda Rohan (1867-1947) kể lại trong “Meiji nijūnen zengo no nibunsei” (Hai Ngôi sao văn chương cuối những năm 1880, 1925) rằng Shōsetsu shinzui không lay động nhiều độc giả cũng như không thu hút được phản hồi đáng kể khi xuất bản. Peter Kornicki tuyên bố rằng ông tìm thấy “vài đề cập nhỏ nhặt” về Shōsetsu shinzui trong sáu năm sau khi xuất bản.¹³ Trên thực tế, tác phẩm hư cấu thử nghiệm của Shōyō, Tōsei shosei katagi, một văn bản hiện được coi là một thất bại văn chương, đã nhận được sự chấp thuận ngay tắp lự, so với Shōsetsu shinzui.

Cái lu mờ ban đầu này rất đáng suy ngẫm trong bối cảnh sự xuất hiện phát nhàm của cái mà nhà phê bình văn chương Nakayama Akihiko gọi là những “cliché” [khuôn sáo] của Shōsetsu shinzui được sử dụng trong các cuộc thảo luận về shōsetsu vào khoảng thời gian Shōsetsu shinzui được xuất bản. Bằng những khuôn sáo của Shōsetsu shinzui, tôi theo cách dùng của Nakayama và đề cập đến các thuật ngữ như ninjō, fūzoku, và setai (cảm xúc, phong tục, và tập quán) và mosha được sử dụng để thảo luận về lĩnh vực của shōsetsu ngay cả khi không trực tiếp đề cập đến Shōyō hay Shōsetsu shinzui. Những khuôn sáo như vậy được gọi là khuôn sáo của Shōsetsu shinzui bởi vì chúng được liên kết ngược lại với Shōsetsu shinzui, nhưng chúng bắt đầu được sử dụng vào đầu đến giữa những năm 1880 một cách độc lập với Shōsetsu shinzui. Ngay từ năm 1881 và 1882, chúng ta thấy các nhà văn liên kết shōsetsu với “cảm xúc” và “phong tục”: Hattori Bushō (1842-1908) đề cập đến cảm xúc và phong tục là chủ đề chính của shōsetsu; Nakajima Katsuyoshi (1858-1932) định nghĩa mục đích của shōsetsu là miêu tả cảm xúc và phong tục.  Sakazaki Shiran (1853-1913) trong “Shōsetsu haishi no honbun o ronzu” (Về Vai trò Chính của Shōsetsu Haishi, 1885), xuất bản trước Shōsetsu shinzui, cũng nói, “Cuối cùng thì shōsetsu là gì? Nó là một phương tiện miêu tả tập quán và cảm xúc, và có thể gọi nó là tấm gương miêu tả chân thực.”¹⁷ Cách sử dụng như vậy tiếp tục trong các “cuộc tranh luận về sự suy tàn của văn chương” (bungaku kyokusui ronsō) xảy ra giữa năm 1889 và 1890, khi các nhà phê bình tham gia tranh luận về việc liệu việc miêu tả cảm xúc trong shōsetsu có gây ra sự suy thoái của văn chương hay không. Khi phê phán shōsetsu đương thời, tác giả của “Bungaku sekai no kinkyō” (Tình hình Hiện tại của Thế giới văn chương, 1890) nói, “Các nhà văn shōsetsu miêu tả ‘cảm xúc thấp hèn’ chứ không phải ‘cảm xúc đúng đắn’.”  Uchida Roan (1868-1929), đáp lại những tuyên bố như vậy, khẳng định rằng “tình yêu là một phần của bảy cảm xúc cơ bản, và không thể miêu tả ‘cảm xúc’ nếu không có nó”, sử dụng các cụm từ như “thâm nhập sâu thẳm cảm xúc (ninjō o ugatsu) trong quá trình này. Rõ hay ngầm, dù ủng hộ hay phản đối, những nhà phê bình này đều đề cập đến “cảm xúc, phong tục, và tập quán” trong các cuộc thảo luận của họ như thể có một mối liên hệ tự nhiên giữa các thuật ngữ đó và shōsetsu, điều này cho thấy đã có một sự thay đổi trong văn chương xoay quanh các thuật ngữ này.

Trong việc làm sáng tỏ sự thay đổi này trong văn chương, “cảm xúc, phong tục, và tập quán” phải được tách biệt một cách giả định khỏi Shōsetsu shinzui bởi vì Shōsetsu shinzui chỉ là một trong nhiều văn bản liên kết các thuật ngữ này với shōsetsu, chứ không phải là nguyên nhân của sự thay đổi. Chỉ sau này, Shōsetsu shinzui mới được xác định là người khởi xướng duy nhất cho sự thay đổi sang “cảm xúc, phong tục, và tập quán”. Do đó, việc đặt Shōsetsu shinzui làm nguồn gốc của sự thay đổi không phải là một hành động miêu tả mà là một hành động mang tính tư tưởng. Với hành động này, Shōsetsu shinzui đã đảm nhận vai trò nguồn gốc tư tưởng của “văn chương”. Việc chỉ định “những cliché của Shōsetsu shinzui” thể hiện sự liên kết thiếu phê phán giữa Shōsetsu shinzui và “cảm xúc, phong tục, và tập quán”, điều này nằm ở cốt lõi của cơ chế hỗ trợ và củng cố vị thế tư tưởng của Shōsetsu shinzui. Bất chấp nguy cơ hiểu lầm, tôi đã chọn giữ lại tên gọi này như một lời nhắc nhở thường xuyên về cơ chế này.

Bằng cách tách biệt một cách phương pháp luận “cảm xúc, phong tục, và tập quán” khỏi Shōsetsu shinzui và tái định vị chúng trong bối cảnh chính trị và trí tuệ của Nhật Bản những năm 1880, chúng ta cần làm nổi bật thời điểm xảy ra sự thay đổi nhận thức luận trong cách hiểu về “văn chương”, thời điểm văn chương ra đời như một phạm trù độc lập về bản thể học. Khi shōsetsu tìm thấy lý do tồn tại của nó trong “cảm xúc, phong tục, và tập quán”, nó đã mở đường cho việc thiết lập phương trình “bungaku = literature”, một phương trình mà, như tôi sẽ chỉ ra ngay sau đây, vẫn chưa được thiết lập vào giữa những năm 1880.

Vậy thì “cảm xúc, phong tục, và tập quán” cấu thành nên điều gì? Không cần phải nói, việc tập trung tăng cường vào một chủ đề không thể xảy ra nếu không đồng thời làm giảm sự tập trung vào một chủ đề khác. Việc thiết lập cảm xúc, phong tục, và tập quán như là chủ đề chính của shōsetsu liên kết chặt chẽ với việc làm giảm sự tập trung vào diễn ngôn “chính trị”. Vào giữa những năm 1880, cảm xúc, phong tục, và tập quán xuất hiện đối lập trực tiếp với một habitus nhất định cấu thành nên “chính trị” vào thời điểm lịch sử cụ thể đó.

Không cần phải nói, các văn bản và câu chuyện mà chúng ta hiện nay phân loại dưới tiêu đề văn chương đã được viết từ rất lâu trước thời điểm này. Tuy nhiên, văn chương như một phạm trù vẫn chưa được công nhận, và vào thời điểm lịch sử cụ thể này, nó đã làm được điều đó bằng cách tự định nghĩa mình đối lập với chính trị. Để văn chương có được một bản sắc độc lập, chính trị – được đặt đối lập với văn chương – phải được sản xuất như một đối tượng cần bị áp chế. Nói cách khác, sự ra đời của “bungaku = literature” xảy ra cùng với sự ra đời và áp chế chính trị. Tuy nhiên, bất chấp việc đã tách khỏi chính trị, “bungaku = literature” hoàn toàn không phi chính trị; nó thể hiện một loại chính trị mới được biểu hiện trong việc che giấu chính trị.

[….]

Bungaku Literature và Shōsetsu Novel

Trước khi kết hợp với literature, thuật ngữ bungaku biểu thị “học tập” hoặc “kiến thức”, và nó chủ yếu đề cập đến các tác phẩm kinh điển kangaku. Tuy nhiên, điều này không nên nhầm lẫn với cái mà chúng ta gọi là “học thuật” ngày nay. Cho đến thời Edo, định nghĩa của bungaku là “việc nghiên cứu bun” – một ký tự mà về mặt từ nguyên có nghĩa là “hình dạng hoặc mẫu” có nghĩa là “việc cai trị đất nước bằng các phương tiện khác ngoài các mệnh lệnh và sắc lệnh bằng lời nói trực tiếp”. Bungaku không chỉ đề cập đến một mô hình kiến thức cần được nghiên cứu mà còn đề cập đến các lực lượng tư tưởng định hình hệ thống trật tự được “sống” bởi con người. Ngay cả ở Nhật Bản thời Minh Trị, định nghĩa bungaku như vậy vẫn tồn tại. Nishi Amane (1829-97), chẳng hạn, nói trong đoạn mở đầu của Hyakugaku renkan (Bách khoa toàn thư, 1870): “Bun” và ‘đạo’ là hai thứ phát triển từ một; khi bungaku phát triển, đạo sáng rõ…. Nếu bun không phát triển, thì ‘đạo’ sẽ không bao giờ được chiếu sáng.” Nói cách khác, bungaku bao gồm một yếu tố đạo đức nhất định; đó là một nghiên cứu về con đường “đúng” và “tốt” được thể hiện bởi các tác phẩm kinh điển kangaku.

Các văn bản này bao gồm các tác phẩm như Chunqiu (Xuân Thu), Guoyu (Quốc Ngữ), Shiji (Sử Ký), và Hanshu (Hán Thư). Đây là những biên niên sử về sự hưng thịnh và suy tàn của các đế chế, lịch sử chiến tranh, và những thành tựu và thất bại của các nhà lãnh đạo. Tóm lại, những tác phẩm kinh điển này là những câu chuyện về các chiến lược cơ bản của chiến tranh, cũng như các phương pháp không thể thiếu để xây dựng và cai trị một quốc gia. Như vậy, chính trị, lịch sử và văn chương liên kết chặt chẽ trong lĩnh vực bungaku, và đây là một khuôn khổ quen thuộc đối với các thành viên của giới trí thức thời Minh Trị.

Thuật ngữ ghép Hán-Nhật shōsetsu cũng thuộc về khuôn khổ diễn ngôn này và có ý nghĩa hoàn toàn khác so với nghĩa hiện tại của nó. Mặc dù shōsetsu không được coi trọng như các sử sách chính thức cấu thành nên kiến thức, sự liên kết giữa chính trị, lịch sử và văn chương vẫn là một phần của khối văn bản này. Shōsetsu ban đầu đề cập đến các tác phẩm của các quan chức cấp thấp của chính phủ Trung Quốc, những người biên soạn thông tin họ thu thập được từ dân thường. Một mục từ điển thường trích dẫn đoạn sau từ Hanshu, một trong những tác phẩm kinh điển kangaku: “Các nhà văn shōsetsu và quan chức thu thập chuyện phiếm từ địa phương bằng cách lắng nghe tin đồn trên đường phố.” Do đó, shōsetsu là một tập hợp những “chuyện nhỏ” bắt nguồn từ các sự kiện xảy ra trong cộng đồng địa phương. Trái ngược hoàn toàn với các văn bản được đưa vào “lịch sử chính thức” (seishi), shōsetsu đề cập đến các tác phẩm có tầm quan trọng tối thiểu. Theo đó, thuật ngữ shōsetsu thường được các nhà văn sử dụng để hạ thấp tác phẩm của chính họ.

Ý nghĩa của shōsetsu bắt đầu thay đổi trong thời Edo khi hakuwa shōsetsu (tiểu thuyết bạch thoại Trung Quốc; baihua xiaoshuo trong tiếng Trung) bắt đầu được nhập khẩu từ Trung Hoa.  Một hình thức tự sự được viết theo phong cách bạch thoại, nhóm văn bản này được cho là bắt đầu từ thời nhà Tống (960-1279). Trong thời Edo, các tác phẩm như Sanguozhi yanyi (Tam Quốc Diễn Nghĩa) và Shuihu zhuan (Thủy Hử) trở nên cực kỳ phổ biến; và các bản chuyển thể của những câu chuyện như vậy được sản xuất bởi nhiều nhà văn gesaku, chẳng hạn như Kyokutei Bakin. Với sự ra đời của những câu chuyện như vậy được gọi là “shōsetsu”, shōsetsu bắt đầu mang ý nghĩa hư cấu và không còn đơn giản giới hạn ở những tin đồn và “chuyện nhỏ” của dân thường. Tuy nhiên, ngay cả trong thời Edo, shōsetsu không biểu thị một thể loại được quy định, và nó giữ lại ý nghĩa rộng là “các tác phẩm tầm thường” hoặc “văn bản không quá nghiêm túc”.

Thuật ngữ shōsetsu được áp dụng theo nhiều cách khác nhau trong những năm đầu thời Minh Trị. Chẳng hạn, Nishi Amane trong Hyakugaku renkan sử dụng shōsetsu để chỉ các truyện ngụ ngôn, trong khi sử dụng haishi cho “lãng mạn”, mà ông mô tả là “các tác phẩm của La Mã cổ đại… tương tự như lịch sử”. Kikuchi Dairoku (1855-1917), người đã dịch “Rhetoric and Belles-Lettres” của Robert Chambers (1800-1883) (Shūji oyobi kabun, 1880), sử dụng shōsetsu làm bản dịch cho “old romance”, thể loại mà Chambers đặt truyền thuyết Arthurian. Chỉ hai năm trước khi Shōsetsu shinzui được xuất bản, Nakae Chōmin (1847-1901) đã dịch L’esthetique (Mỹ học, 1878; xuất bản bằng tiếng Nhật là Ishi bigaku, 1883) của Eugene Veron, trong đó ông giới thiệu nhiều thể loại văn chương của phương Tây, bao gồm cả tiểu thuyết, nhưng ông hoàn toàn không sử dụng thuật ngữ shōsetsu. Trong lĩnh vực hư cấu, Matsuura Shun’suke đề cập đến Harusame bunko (Tạm dịch: Bưã ấy Mưa Xuân phơi phới bay, 1876-82) của mình là “shōsetsu khai sáng” (kaimei shōsetsu), một tác phẩm mà ông viết đặc biệt cho “phụ nữ và trẻ em”. Takabatake Ransen, trong lời tựa cho Kōsetsu kono tegashiwa (Những câu chuyện không đáng tin trên đường phố, 1879), một tác phẩm phác thảo tiểu sử những người từ cuối thời Edo đến đầu thời Minh Trị, nói rằng tác phẩm tiếp theo là một “shōsetsu không đầy đủ”.  Sakurada Momoe (1859-83) sử dụng shōsetsu để chỉ Nishi no umi chishio no saarashi (Thủy triều máu và bão nhỏ ở Biển Tây, 1882), bản dịch tác phẩm của Alexandre Dumas (1802-70) về Cách mạng Pháp, có đối tượng độc giả là độc giả của Jiyū shinbun, do đó là giới trí thức lúc bấy giờ. Tōkai Sanshi cũng sử dụng shōsetsu để chỉ Kajin no kigū (Những cuộc gặp gỡ tình cờ với phụ nữ đẹp, 1885-97), một tác phẩm hư cấu chính trị bán chạy nhất trong giới văn sĩ lúc bấy giờ. Do đó, trong thời kỳ này, shōsetsu đề cập đến mọi thứ từ tiểu sử đến truyện ngụ ngôn cho trẻ em, truyện phiêu lưu đến hư cấu chính trị.

Tuy nhiên, bất chấp cách sử dụng khác nhau, ý nghĩa của shōsetsu liên quan đến truyền thống hakuwa dường như chiếm ưu thế, đặc biệt là trong giới trí thức. Nhiều tác phẩm nổi bật với những câu chuyện anh hùng với cấu trúc cốt truyện “khuyến thiện trừng ác” (kanzen chōaku), thường miêu tả những anh hùng “tốt” chiến đấu chống lại những “ác” nhân. Đây có thể là ý nghĩa được thiết lập nhất bởi vì các tác phẩm theo kiểu hakuwa có lịch sử lâu đời và vẫn được đọc và lưu hành rộng rãi. Các tác phẩm của Kyokutei Bakin là những bản chuyển thể hakuwa nổi tiếng nhất, rất phổ biến trong giới văn sĩ thời Minh Trị. Hơn nữa, các câu chuyện hakuwa tăng lên về số lượng và mức độ phổ biến từ năm 1882 đến 1885, khoảng thời gian Shōyō hình thành và viết Shōsetsu shinzui.

Văn phong của các bản chuyển thể hakuwa [một dạng như phỏng dịch] được kế thừa sang hư cấu đầu thời Minh Trị. Những câu chuyện như vậy thường mang hình thức “bản dịch” các tiểu thuyết châu Âu, rất phổ biến trong đối tượng độc giả của Shōsetsu shinzui, cụ thể là “những người có địa vị và học vấn” (taijin gakusha).⁴⁰ “Bản dịch” có nhiều hình thức khác nhau ở Nhật Bản đầu thời Minh Trị, chẳng hạn như chuyển thể (honan) và dịch theo nội dung (iyaku). Theo đó, thực sự không có ranh giới rõ ràng giữa các tác phẩm dịch và các tác phẩm gốc do các nhà văn sáng tác; sự phân biệt phụ thuộc vào việc nhà văn/người dịch có quan tâm đến việc đề cập đến sự hiện diện của một văn bản “gốc” mà từ đó ông đã sáng tác tác phẩm của mình hay không. Do đó, các tác phẩm theo phong cách hakuwa mà tôi đề cập sau này bao gồm cả “bản dịch” và “không phải bản dịch”.

Điều quan trọng đối với mục đích của chúng ta là những tác phẩm này thể hiện năng lượng chính trị của thời đại. Quốc gia mà các nhà văn chọn tác phẩm thường phản ánh lập trường chính trị của họ. Các thành viên của Jiyūtō (Đảng Tự do), chẳng hạn như Sakurada Momoe, Miyazaki Muryū (1855-89), và Sakazaki Shiran, đã dịch các tác phẩm tiếng Pháp có chủ đề về Cách mạng Pháp để báo trước một cuộc cách mạng ở Nhật Bản thời Minh Trị. Sakurada và Muryū đã dịch Mémoires d’un médicin: Joseph Balsamo (Hồi ký của một bác sĩ, 1846-48) và Ange Pitou (Sáu năm sau; hay, Cuộc tấn công Bastille, 1853) của Alexandre Dumas, tương ứng, vì mục đích đó. Một số tác phẩm của Victor Hugo (1802-85) cũng được lưu hành, đặc biệt là sau cuộc gặp gỡ nổi tiếng của Itagaki Taisuke (1837-1919) với nhà văn trong chuyến đi Pháp năm 1882. Itagaki, một người ủng hộ nổi tiếng của Phong trào Tự do Dân quyền, đã hỏi Victor Hugo về những cách hiệu quả để truyền bá nhận thức chính trị trong số những người “chưa văn minh” của Nhật Bản. Hugo nói với Itagaki hãy cho họ đọc những tiểu thuyết như của ông. Itagaki theo đó trở về Nhật Bản với những thùng sách, dẫn đến sự gia tăng đáng kể số lượng tiểu thuyết dịch sau năm 1882. Các nhà văn Jiyūtō cũng nổi tiếng vì yêu thích những người theo chủ nghĩa vô chính phủ ở Nga. Kishūshū (Linh hồn than khóc, 1884) của Muryū, một bản chuyển thể của La Russia Sotteranea (Nước Nga ngầm, 1882) của S. Stepniak (1851-95), là một ví dụ như vậy.

[…] 

Quyển “Shōsetsu shinzui”  cắt đứt thuật ngữ shōsetsu [tiểu thuyết] khỏi hệ thống ngữ nghĩa trước đó của nó và gắn nó với khái niệm “tiểu thuyết” [novel].

“Tiểu thuyết” là một thuật ngữ mơ hồ đối với độc giả thời Minh Trị. Điều này có lẽ được minh họa rõ nhất bằng lời tựa cho Karyū shunwa (Mạn sự về hoa, 1879) của Oda Jun’ichirō, một bản dịch rút gọn của Ernest Maltravers (1837) của Edward Bulwer-Lytton và phần tiếp theo của nó, Alice (1838), rất phổ biến trong giới trẻ lúc bấy giờ. Narushima Ryūhoku (1837-84), người viết lời tựa cho bản dịch của Oda Jun’ichirō, nói như sau:

Các học giả cứng nhắc nói, “Người dân các nước phương Tây mãi mãi bị ràng buộc bởi tính thực dụng và rao giảng tầm quan trọng của lợi nhuận nhưng không có thị hiếu (fūryū) hay cảm xúc (jōchi).” Đây là kết quả của sự mù quáng ngây thơ từ phía các học giả. Tôi đã đi tàu một năm và tương tác chặt chẽ với [người dân các nước phương Tây] trên boong. Cảm xúc của họ rất giống với tôi.

Ryūhoku kết thúc lời tựa bằng cách nói rằng Karyū shunwa sẽ chứng minh chính xác điều đó. Lời tựa này cho phép chúng ta nhận ra các điều kiện mà Karyū shunwa được xuất bản. Các văn bản phương Tây đã được dịch trước đó đã tập trung vào “lợi nhuận” và “tính thực dụng” đến mức độc giả đã hình dung ra hình ảnh người dân các nước phương Tây thiếu “thị hiếu hoặc cảm xúc”. Cho đến khi Karyū shunwa được xuất bản vào năm 1879, các tác phẩm thuộc phạm trù “kiến thức thực tế”, chẳng hạn như triết học chính trị, kinh tế học, khoa học và địa lý, được ưu tiên cao hơn hư cấu. Nói cách khác, độc giả Nhật Bản mà Ryūhoku hướng tới không quen thuộc với các thực hành văn chương của phương Tây; tiểu thuyết là một khái niệm mơ hồ, và các đặc điểm xác định của nó còn xa lạ với độc giả.

Với phương trình “shōsetsu = novel” xuất hiện ở cuối phần giới thiệu của Shōsetsu shinzui, chúng ta thường quên rằng chính phương trình đó còn xa mới ổn định vào khoảng thời gian Shōsetsu shinzui được viết. Mặc dù tiêu đề của tác phẩm cho chúng ta ấn tượng rằng nó mô tả bản chất của một thực thể đã tồn tại được gọi là shōsetsu, Shōsetsu shinzui không phải là một tác phẩm miêu tả mà là một tác phẩm mang tính quy phạm hơn. Đó là một văn bản cố gắng tạo ra một phương tiện thích hợp cho việc chỉ định “shōsetsu nghệ thuật”, điều mà vẫn chưa thành hình.

“Văn chương” như là “Kiến thức Hiện đại”

Theo nhiều cách, sự ra đời của shōsetsu liên quan đến sự hình thành “kiến thức hiện đại”. Thứ nhất, ranh giới các ngành khoa học đang thay đổi: bungaku (sau này là “văn chương”) rõ ràng là một thực thể mơ hồ, và các hình thức kiến thức khác cũng vậy. Như tôi đã gợi ý trước đó, ranh giới giữa lịch sử, chính trị và văn chương còn xa mới được thiết lập. Theo đó, Shōsetsu shinzui bị chi phối bởi nhu cầu tách shōsetsu khỏi chính trị và lịch sử và thiết lập shōsetsu như một hình thức kiến thức hợp pháp tự thân. Thứ hai, trong thời kỳ đầu Minh Trị, những gì có thể đủ điều kiện là “kiến thức” đã bị tranh chấp gay gắt. Giá trị của shōsetsu do đó không phải là điều hiển nhiên; trên thực tế, nó được coi là thứ yếu so với các ngành như lịch sử và chính trị, những ngành được coi là có vai trò trong quá trình xây dựng quốc gia. Bộ tiêu chí đánh giá “kiến thức” đã thay đổi trong suốt hai thập kỷ đầu thời Minh Trị, và các cải cách giáo dục đã được thực hiện tương ứng.

Không thể thiếu trong các mô hình kiến thức thay đổi như vậy là cuộc xung đột giữa các học giả “học phương Tây” (yōgaku), “học bản địa” (kokugaku) và kangaku dựa trên Nho giáo. Mặc dù một câu chuyện đơn giản hóa về sự hiện đại hóa của Nhật Bản thường thảo luận về cách học phương Tây chiếm ưu thế, coi nhẹ các hình thức học tập “tiền hiện đại” ở Nhật Bản trong nỗ lực hiện đại hóa, đặc điểm tuyến tính như vậy không làm rõ được các quá trình phức tạp, thường mang tính chính trị, liên quan đến sự phát triển của kiến thức hiện đại.

Ngay cả trong số những người ủng hộ học phương Tây, các cuộc xung đột vẫn tồn tại. Chúng diễn ra trong cuộc đấu tranh giữa các trường do chính phủ tài trợ và các trường tư thục, song song với cuộc đấu tranh giữa các quan chức chính phủ và các nhà hoạt động Phong trào Tự do và Dân quyền. Do đó, những cuộc xung đột này liên quan trực tiếp đến các cuộc tranh luận chính trị về các hình thức lập pháp, hệ thống tư pháp, v.v. Giống như các tiểu thuyết mà họ đã dịch, các nhà hoạt động Jiyūtō ủng hộ hệ thống Pháp, và các nhà hoạt động Kaishintō ủng hộ hệ thống Anh, trong khi các thành viên trung tâm của chính phủ chủ yếu nghiêng về hệ thống Phổ, đặc biệt là về hiến pháp của nó. Chương trình giảng dạy và cải cách giáo dục củng cố niềm tin của mỗi đảng. Nói tóm lại, chúng không đồng nhất.

Sự bất đồng này càng phức tạp hơn khi các học giả Nho giáo, những người mà việc nghiên cứu được coi là “lỗi thời” trong thập kỷ đầu thời Minh Trị, bắt đầu tái tham gia cuộc đấu tranh quyền lực vào đầu những năm 1880. Đây là một phần của cải cách do chính phủ ban hành, nhằm trung hòa Phong trào Tự do và Dân quyền, vốn được coi là do học phương Tây thúc đẩy. Phê phán các học giả học phương Tây vì chỉ tập trung vào “giáo dục trí tuệ” (chiiku), các học giả Nho giáo nhấn mạnh sự cần thiết của “giáo dục đạo đức” (tokuiku) và lập luận cho cải cách nội bộ.

Cuộc đấu tranh quyền lực giữa các học giả ủng hộ học phương Tây và học giả Nho giáo định hình Shōsetsu shinzui theo nhiều cách khác nhau, ban đầu chủ yếu là một lực lượng dán nhãn shōsetsu là suy đồi đạo đức (theo học thuyết Nho giáo) và không thực tế (theo các học giả học phương Tây tán thành “kiến thức thực tế”). Shōsetsu shinzui giải quyết những lực lượng tiêu cực coi thường shōsetsu khi nó cố gắng nâng cao shōsetsu như một hình thức kiến thức, một phương tiện thích hợp cho “những người có địa vị và học vấn”.

Sự phát triển của hệ thống đại học và việc thể chế hóa “văn chương” cũng rất quan trọng trong việc xem xét các lực lượng diễn ngôn đã tán thành sự ra đời của văn chương. văn chương gia nhập trường đại học trong vòng vài năm sau khi Shōsetsu shinzui được xuất bản, khi Đại học Hoàng gia Tokyo thành lập Kokubungakka (Khoa văn chương Quốc gia) vào năm 1889. Trước thời điểm này, Bungakubu (Trường văn chương) của Đại học Tokyo đã bao gồm Wakan Bungakka (Khoa văn chương Nhật Bản và Trung Quốc) từ năm 1877, nhưng rõ ràng nó rất không phổ biến. Năm 1882, Katō Hiroyuki (1836-1916), lúc đó là hiệu trưởng Đại học Tokyo, thành lập Koten Kōshūka (Chương trình Nghiên cứu Kinh điển), tách biệt với Khoa văn chương Nhật Bản và Trung Quốc đã tồn tại. Cải cách như vậy đánh dấu nỗ lực của chính phủ nhằm giành quyền kiểm soát các phong trào đối lập; đó là một nỗ lực nhằm chống lại các xung lực phương Tây hóa đã chi phối lĩnh vực giáo dục trong những năm đầu thời Minh Trị.  Năm 1885, Khoa văn chương Nhật Bản và Trung Quốc được tách thành Wabungakka (Khoa văn chương Nhật Bản) và Kanbungakka (Khoa văn chương Hán-Nhật), và Khoa văn chương Nhật Bản được giao nhiệm vụ phục hưng việc nghiên cứu các tác phẩm kinh điển Nhật Bản. Chương trình Nghiên cứu Kinh điển tồn tại khá ngắn ngủi và đóng cửa vào năm 1888, chỉ có hai khóa sinh viên tốt nghiệp; tuy nhiên, điều thú vị là các sinh viên tốt nghiệp chương trình này và các sinh viên của Khoa văn chương Nhật Bản – đổi tên thành Kokubungakka (Khoa văn chương Quốc gia) vào năm 1889 – đã đóng góp vào sự phát triển của “văn chương quốc gia” trong trường đại học.

Nhiều lịch sử văn chương (bungakushi) được sản xuất trong lĩnh vực học thuật này. Lịch sử văn chương, thể hiện nỗ lực phân định ranh giới các ngành khoa học thông qua việc viết lịch sử của nó, chứa nhiều “cliché” của Shōsetsu shinzui. Tuy nhiên, mối liên hệ thực tế giữa Shōsetsu shinzui và văn chương quốc gia không dễ giải mã. Với sự lu mờ ban đầu của Shōsetsu shinzui, văn chương quốc gia dường như đã khám phá ra những “cliché” của Shōsetsu shinzui một cách độc lập.⁴⁷ Đáp lại các nghiên cứu cổ vật về văn chương trước đó, các học giả mới đọc các văn bản như một sự phản ánh của thời đại và “tinh thần bên trong” của con người. Do đó, các nhà sử học văn chương đã đề cập nhiều đến “tấm gương cuộc sống” (jinsei no kagami) và “tấm gương phản chiếu xã hội” (shakai no hansha kagami) khi đặt các tác phẩm văn chương vào vị trí của chúng, liên kết các văn bản với “đời sống nội tâm” (shinteki seikatsu) và “cảm xúc và suy nghĩ” (kanjō shisō) của con người. Nihon bungakushi (Lịch sử văn chương Nhật Bản, 1890) của Mikami Sanji và Takatsu Kuwasaburō, chẳng hạn, tuyên bố rằng “văn chương là sự phản ánh trái tim/tâm trí của con người” (jinshin). Bất kể mối liên hệ thực tế của lịch sử văn chương với Shōsetsu shinzui, văn chương quốc gia học thuật được thành lập vào năm 1889, bốn năm sau khi Shōsetsu shinzui được xuất bản, rõ ràng thể hiện các lực lượng diễn ngôn đã tạo điều kiện cho sự “xoay vào bên trong” cuối cùng đã tán thành vai trò trung tâm của “cảm xúc, phong tục, và tập quán” trong shōsetsu.

Sự xuất hiện của câu châm ngôn “quyền tự chủ của kiến thức” vào đầu đến giữa những năm 1880 cũng bổ sung thêm chiều kích quan trọng cho cuộc điều tra của tôi về lĩnh vực kiến thức. Quyền tự chủ của kiến thức, lập luận cho việc phi chính trị hóa kiến thức, lặp lại sự bác bỏ habitus chính trị, một lực lượng trung tâm định hình sự thay đổi nhận thức luận. Nó còn tìm cách định nghĩa kiến thức như một phương tiện “quốc gia”, thay vì một phương tiện bị chia rẽ bởi các chương trình nghị sự chính trị khác nhau do các phe phái khác nhau, chính phủ hoặc khác, tán thành. Như vậy, nó liên quan đến mục tiêu của chính phủ nhằm thiết lập văn chương quốc gia trong học thuật để chống lại các xung lực phương Tây hóa: cả hai đều ngẫu nhiên tạo điều kiện cho sự quốc gia hóa rõ ràng của văn chương. văn chương quốc gia thành hình khi các sinh viên tốt nghiệp Khoa văn chương Nhật Bản và Chương trình Nghiên cứu Kinh điển bắt đầu thể chế hóa ngành học thông qua việc biên soạn lịch sử văn chương mà, như đã đề cập trước đó, định nghĩa lĩnh vực văn chương bằng những “cliché” – khuôn sáo của Shōsetsu shinzui. Quốc gia hóa, phi chính trị hóa, và sự xoay vào bên trong trong văn chương kết hợp trong lĩnh vực kiến thức. Theo đó, các cải cách định hình lĩnh vực kiến thức và lĩnh vực giáo dục đặc biệt được quan tâm trong dự án của tôi [ý tác giả nói là cuốn sách này].

 

CATEGORIES
Share This

COMMENTS

Wordpress (0)