NHẬP KHẨU VĂN CHƯƠNG VÀ TƯ TƯỞNG PHƯƠNG TÂY Ở NHẬT BẢN THỜI MINH TRỊ
từ một truyền thống dịch thuật văn chương phương Tây mới, kết hợp với nội lực sẵn có của Nhật Bản, bắt đầu từ cuộc cải cách nổi tiếng mang tên Duy Tân Minh Trị. Gogol, Dickens, Jules Verne, và Cervantes (thật bất ngờ là Novelas Ejemplares được dịch trước chứ không phải là Đôn Ki-hô-tê) đã xuất hiện trong tiếng Nhật từ giai đoạn này.

NHẬP KHẨU VĂN CHƯƠNG VÀ TƯ TƯỞNG PHƯƠNG TÂY Ở NHẬT BẢN THỜI MINH TRỊ

Bạch Dương chuyển ngữ từ nguyên bản tiếng Tây Ban Nha, “La recepción de la literatura y el pensamiento occidental, y la traducción en el japón de la era meiji”

Tác giả:  Teresa Rodríguez Navarro, Đại học Barcelona

Giới thiệu của Văn+: Nửa đầu thế kỷ XX, Nhật Bản xuất hiện nhiều nhà văn lớn: Tanizaki,  O. Shunro, Naoya Shogo (một học trò của Natsume Soseki),  sau một chút là Dazai Osamu, Edogawa Ranpo, Yukio Mishima… cho đến nay, vẫn được bạn đọc VIệt Nam vô cùng yêu thích. Họ là những thế hệ được sản sinh bởi văn chương Nhật Bản hiện đại, bắt nguồn từ  Shōsetsu shinzui [tinh hoa tiểu thuyết] – một tập lý thuyết văn chương chỉ mới xuất hiện quãng 1885-1886. Nhưng quan trọng hơn cả, từ một truyền thống dịch thuật văn chương phương Tây mới, kết hợp với nội lực sẵn có của Nhật Bản, bắt đầu từ cuộc cải cách nổi tiếng mang tên Duy Tân Minh Trị. Gogol, Dickens, Jules Verne, và Cervantes (thật bất ngờ là Novelas Ejemplares được dịch trước chứ không phải là Đôn Ki-hô-tê) đã xuất hiện trong tiếng Nhật từ giai đoạn này. Công cuộc đó có dấu ấn của nhiều văn hào, trong đó có Mori Ögai. 

Nhật Bản đã thay da đổi thịt, bước mạnh mẽ vào thế kỷ XX. Nhờ truyền thống này, ta thấy các nhà văn Nhật nửa đầu thế kỷ XX đồng thời cũng là các nhà trí thức lớn, họ có thể tự vận hành các tờ báo tư nhân lớn, ngay từ khi rất trẻ tuổi. 

Bài viết này của tác giả Teresa Rodríguez Navarro, Đại học Barcelona sẽ nhìn tổng quát khía cạnh “nhập khẩu” văn chương ở Nhật thời Minh Trị. Dùng từ Nhập khẩu, vì không chỉ có dịch thuật, mà còn phóng tác, phỏng dịch… Và quan trọng nhất, tự cải thiện năng lực biểu đạt của mình, thông qua việc, tạo ra các thuật ngữ mới, một cách liên tục, đều đặn trong rất nhiều năm của cuộc đổi mới. . .

 

 


NHẬP KHẨU VĂN CHƯƠNG VÀ TƯ TƯỞNG PHƯƠNG TÂY Ở NHẬT BẢN THỜI MINH TRỊ

 

Mục tiêu chính của bài viết này là trình bày một cái nhìn tổng quan về cuộc cách mạng văn hóa diễn ra vào cuối thế kỷ XIX tại đất nước Mặt trời mọc, dẫn đến cuộc Minh Trị Duy Tân năm 1868 và những năm sau đó. Sự nhập khẩu văn chương và ý luận phương Tây, cùng với sự pha trộn của chúng với tư tưởng Nhật Bản, đã định hình công việc của một số trí thức có ảnh hưởng nhất trong sự thay đổi mang tính bước ngoặt này trong lịch sử Nhật. Họ quan tâm rất sâu đến văn hóa, khoa học và ngôn ngữ phương Tây, và thực sự là cầu nối giữa hai nền văn minh. Chúng tôi cũng muốn nhấn mạnh ảnh hưởng của việc dịch các văn bản phương Tây trong quá trình hiện đại hóa tiếng Nhật.

 

  • BỐI CẢNH CHÍNH TRỊ-XÃ HỘI

 

Thời Minh Trị [từ 1852 – 1912] là bối cảnh văn hóa-xã hội nơi Nitobe Inazo, Mori Ogai, Fukuzawa Yukichi, Futabatei Shimei và Söseki Natsume cùng nhiều trí thức, luật gia và những người trung gian văn hóa khác giữa phương Đông và phương Tây đã trưởng thành và được đào tạo, những người đã tích cực cộng tác trong công cuộc hiện đại hóa đáng kinh ngạc của Nhật Bản sau cuộc Minh Trị Duy Tân (Meiji Isshin), sự thay đổi chóng mặt mà Nhật Bản trải qua sau khi bị hải đội tàu đen (kurobune) của Mỹ buộc phải mở cửa biên giới sau hơn hai thế kỷ cô lập – khi nó cập bến vịnh Edo vào năm 1853, dưới sự chỉ huy của Đề đốc Perry. Sự kiện này là một sự sỉ nhục lớn về chính trị và quân sự, nhưng cũng là một động lực thúc đẩy hiện đại hóa đất nước trên mọi lĩnh vực. Năm 1854, một Hiệp ước Hữu nghị được ký kết giữa hai nước và các nhà ngoại giao được trao đổi. Townsend Harris là lãnh sự Mỹ đầu tiên và là người đã đạt được một hiệp định thương mại với các điều khoản tương tự như các hiệp ước song phương trước đó với Trung Quốc, và khá bất bình đẳng, luôn có lợi cho người Mỹ.

Những năm cuối của Mạc phủ Tokugawa rất hỗn loạn. Những người đầu tiên phản đối chính sách quốc tế của Mạc phủ là nhóm do một trong những tozama (các lãnh chúa) quyền lực nhất miền Tây Nhật Bản lãnh đạo, do đó họ bị loại khỏi việc tham gia vào các vấn đề của Edo. Năm 1860, có một thỏa thuận giữa Mạc phủ và các daimyo nổi loạn, và thậm chí còn cố gắng dàn xếp với Kyoto thông qua một cuộc hôn nhân sắp đặt với một thành viên của gia đình hoàng gia. Tuy nhiên, sự phản đối của một số samurai ở vùng Satsuma, Choshü và các khu vực khác vẫn tiếp diễn.

Kết quả của những sự kiện này là tạo ra một bầu không khí thuận lợi cho cái được gọi là “cuộc cách mạng quý tộc” vài năm sau đó, do một bộ phận samurai “khai sáng” thuộc tầng lớp thống trị và một số người có địa vị thấp hơn lãnh đạo, đặc biệt là từ các phiên Satsuma và Choshü, những người bị chính quyền trung ương gạt ra ngoài lề và đối xử tệ bạc, đã từ bỏ thân phận chư hầu và trở thành rōnin (samurai không có daimyo), để theo đuổi lý tưởng chính trị của họ như những hiệp sĩ lang thang. Họ được gọi là những người có mục đích tốt. Khẩu hiệu của họ là “Đuổi man di” và họ ủng hộ việc phục vị Thiên hoàng, đồng thời liên minh với các bộ trưởng chống Tokugawa vì mục tiêu này.

Sau nhiều sự vụ, quân đội của shogun đã bị đánh bại và đầu hàng vào năm 1867. Chế độ phong kiến đã chấm dứt – mặc dù chưa hoàn toàn – sau bảy thế kỷ, và quyền lực của Thiên hoàng được phục hồi. Do đó, Nhật Bản đã chuyển đổi trong hơn hai thập kỷ, từ một cấu trúc chính trị phong kiến sang một Nhà nước Lập hiến theo mô hình châu Âu thế kỷ XIX, ít nhất là về mặt hình thức; vì theo Reischauer (1981), các chính trị gia và nhà lập pháp Nhật Bản không có ý định xây dựng một hệ thống hoàn toàn dân chủ vào thời điểm lịch sử đó. Năm 1870, tầng lớp samurai bị bãi bỏ và năm 1876, cấm mang katana hay bất kỳ loại kiếm nào khác, ngoại trừ cảnh sát và cận vệ Hoàng gia.

Sự khác biệt về quan điểm liên quan đến việc mở cửa ra bên ngoài vẫn tiếp tục chưa được giải quyết sau cuộc Minh Trị Duy Tân, và cuộc tranh luận lần này tập trung vào việc liệu việc mở cửa của Nhật Bản có nên giới hạn ở một vài cảng, như đã thỏa thuận trong Hiệp ước Kanagawa, hay nên mở cửa hoàn toàn. Có những người cho rằng việc mở cửa nên là một chiến lược để tăng cường sức mạnh cho Nhật Bản và một khi đạt được mục tiêu, sẽ đuổi “bọn man di phương Tây” ra ngoài và đóng cửa biên giới trở lại. Tuy nhiên, có một luồng ý kiến khác cho rằng mối quan hệ với phương Tây sẽ có lợi về lâu dài. Trong những thời điểm đầu tiên sau cuộc Duy Tân, và do chưa xác định được một chiến lược cụ thể, chính phủ đã có ý định quay trở lại các giá trị của các thể chế cũ từ thế kỷ VIII và Bộ luật Taihō thời Nara (685-794 sau Công nguyên), nhưng họ nhận ra rằng nhìn về tương lai và phương Tây sẽ có lợi hơn. Một Hiến chương Tuyên thệ được ban hành, trong đó Thiên hoàng bày tỏ mong muốn hiện đại hóa đất nước và bắt đầu bằng việc tái cấu trúc hành chính lãnh thổ quốc gia với việc bãi bỏ các han (các phiên của các daimyo có một mức độ tự trị nhất định đối với chính quyền trung ương), và hướng tới một mô hình Nhà nước đơn nhất và tập trung, được chia thành 5 tỉnh. Năm 1873, nguyên tắc Bình đẳng trước Pháp luật và nghĩa vụ quân sự bắt buộc cũng được ban hành, cùng với các cải cách quan trọng khác.

Nhiều samurai, một mặt nổi dậy khi bị tước bỏ đặc quyền, mặt khác lại nhìn với sự quan tâm đến sự tiến bộ của phương Tây. Chính lúc đó đã xảy ra hiện tượng được gọi là “bummei kaika” (văn minh và khai sáng), có lẽ là phong trào trí thức đóng góp nhiều nhất vào việc tiếp nhận tư tưởng và văn hóa phương Tây ở Nhật Bản thời bấy giờ. Một chuyến đi chính thức ra nước ngoài được tổ chức, do Iwakura Tomotomi cùng các quý tộc và quan chức cấp cao dẫn đầu, được gọi là Phái đoàn Iwakura (1871-1873), nhằm tìm hiểu các nước phương Tây và họ đã đưa theo những đứa trẻ được chính phủ cấp học bổng để được giáo dục ở Mỹ và châu Âu. Các nhân vật nổi tiếng của châu Âu và Mỹ được mời đến Nhật Bản với tư cách là giáo sư và cố vấn kỹ thuật để đào tạo những người không thể ra nước ngoài. (Varley, 1984: 207).

Tuy nhiên, sau thập kỷ đặc trưng bởi sự mở cửa ra bên ngoài này, một thập kỷ thoái lui đã diễn ra, trong đó một nhóm trí thức đã có một bước ngoặt căn bản hướng tới chủ nghĩa dân tộc. Văn học cổ điển và thơ của Matsuo Bashō (1644-1694) được đề cao, và các quy tắc thẩm mỹ cổ điển được coi là duy nhất có giá trị. Tuy nhiên, theo một chuyển động con lắc, một xu hướng ôn hòa hơn ủng hộ việc Tây hóa nhưng vẫn giữ gìn các giá trị văn hóa thuần túy Nhật Bản đã tiếp nối.

 

  • CÔNG TÁC DỊCH THUẬT TRONG THỜI KỲ MINH TRỊ

 

Việc dịch tư tưởng và ý luận của văn hóa phương Tây sang tiếng Nhật ban đầu gặp một số khó khăn: Trên hết, vấn đề đặt ra là làm thế nào để mã hóa tốt hơn kiến thức nhập khẩu từ phương Tây do khó khăn của tiếng Nhật trong việc chuyển mã thuật ngữ phương Tây (Howland, D, 2002: 61). Trong những năm 1860-1870, do những vấn đề này, các nhà nghiên cứu và giáo dục đã đặt ra sự cần thiết phải chuyển đổi tiếng Nhật.

Vấn đề đầu tiên cần giải quyết là việc tạo ra một thuật ngữ mới, mặc dù điều này đã bắt đầu được đặt ra trước cuộc Duy Tân. Chính trong thời kỳ Mạc phủ Tokugawa, khi các Hiệp ước Quốc tế với Mỹ và Hà Lan bắt đầu được ký kết vào năm 1858, họ cần dịch Luật Quốc tế để biết mình phải tuân thủ những gì. Điều duy nhất họ có cho đến lúc đó là bản dịch sang tiếng Trung của cuốn sách: Các Yếu tố của Luật Quốc tế, của Henry Wheaton, từ đó có nhiều bản dịch sang tiếng Nhật. Tiếp theo, nhiều bản dịch sách về Luật Quốc tế, Luật Tự nhiên và Luật Hiến pháp đã được thực hiện tại Viện Nghiên cứu Nước ngoài Chính thức (Banshö Shirabeshö).

Sau đó, họ bắt đầu quan tâm đến việc dịch sách về Kinh tế và Chính trị, đặc biệt là của Anh và Mỹ. Ví dụ, nhà tư tưởng và nhà sư phạm vĩ đại của thời kỳ Minh Trị, Fukuzawa Yukichi, trong cuốn sách Seijo jijö của mình, đã dịch một phần lớn cuốn sách Kinh tế Chính trị của Robert Chambers. Và một trí thức khác cùng thời, Nakamura Keio, đã dịch cuốn sách Self Help của Samuel Smiles, và năm 1870 dịch On Liberty của Stuart Mill.

Về dịch thuật văn học, mặc dù từ thế kỷ XVI, các tu sĩ Dòng Tên, những người đã đưa kỹ thuật in ấn vào Nhật Bản, đã thực hiện một công việc ban đầu về sáng tác văn học và tiểu luận cũng như dịch các văn bản phương Tây sang tiếng Nhật, như một phiên bản tự do của Truyện ngụ ngôn Aesop, một trong số ít tác phẩm còn sót lại sau chính sách đóng cửa biên giới (sakoku) của Mạc phủ Tokugawa (1603-1868) nhằm xóa bỏ mọi dấu vết quan hệ giữa văn hóa Nhật Bản với phương Tây. Tuy nhiên, mặc dù đã có một số bản chuyển thể khác của các cuốn sách nổi tiếng trước cuộc Duy Tân năm 1868, chính trong thời kỳ lịch sử này, việc dịch các tác phẩm phương Tây sang tiếng Nhật đã được tiến hành một cách phổ biến.

Đầu thời kỳ Minh Trị, một trong những thể loại thịnh hành là sách hài hước, dí dỏm và châm biếm (kokkeibon), có giá trị văn học thấp, vì vậy chúng tôi cho rằng người ta bắt đầu tìm đến việc dịch sách phương Tây để tìm kiếm văn học chất lượng cao hơn và đã dịch Scott và Disraeli. Cũng có nhiều người yêu thích các truyện của Jules Verne (Dạo thế giới trong tám mươi ngày, Du hành Mặt trăng, v.v.); và sau đó là các cuộc phiêu lưu chính trị.

Năm 1885, xuất hiện những bản dịch tiếng Nhật đầu tiên của Cervantes, cụ thể là hai “tiểu thuyết mẫu mực”: Đám cưới giảSức mạnh của huyết thống [thực ra là hai truyện ngắn nằm trong tập Novelas Ejemplares – “Những tiểu thuyết mẫu mực” – nd], và năm 1887 xuất hiện một bản dịch khác của Đám cưới giả. Không có thông tin gì về người dịch hoặc những người dịch, và rất thú vị khi nhận xét rằng những tiểu thuyết mẫu mực này đã bị nhầm lẫn với Don Quijote và được gán cho một người tên là Cervanto. Tuy nhiên, trong những năm đó, Tsujiro Watanabe đã xuất bản phiên bản tự in và một phần đầu tiên của hai mươi chương đầu tiên của Don Quijote, và một thời gian ngắn sau đó, vào năm 1915, bản dịch đầy đủ đầu tiên của tác phẩm này thông qua tiếng Anh đã xuất hiện, của Shimamura Katakami và một bản dịch khác của Morita cùng năm. Tuy nhiên, bản dịch trực tiếp đầu tiên từ tiếng Tây Ban Nha của Don Quijote đã xuất hiện muộn hơn nhiều, vào năm 1948.

Những người dịch văn học đầu tiên gặp nhiều vấn đề với phong cách, do sự khác biệt lớn giữa ngôn ngữ viết và ngôn ngữ nói trong tiếng Nhật. Do đó, những bản dịch đầu tiên chủ yếu là các phiên bản tự do hoặc chuyển thể. Để cố gắng giải quyết vấn đề này, một phong trào do dịch giả và tiểu thuyết gia Futabatei Shimei (1864-1909) lãnh đạo, được gọi là Genbun-itchi, nhằm mục đích thu hẹp khoảng cách lớn giữa ngôn ngữ viết và ngôn ngữ nói. Theo các nhà nghiên cứu Yamamoto Masahide và Nanette Twine (2001), xu hướng này nhằm đưa ngôn ngữ viết và ngôn ngữ nói lại gần nhau đã được các nhà báo áp dụng trong báo chí, như Fukuzawa Yukichi, và những người sáng tạo tiểu thuyết Nhật Bản mới, nhiều người trong số họ cũng là dịch giả như Futabatei Shimei. Tiếng địa phương Tokyo được chấp nhận làm tiếng Nhật chuẩn và đây là ngôn ngữ được sử dụng trong sách giáo khoa tiểu học và cả bởi các nhà báo.

Dịch thuật do đó bao gồm hai giai đoạn: dịch và chuyển hoá. Giai đoạn thứ hai, chuyển hoá, dựa trên ý tưởng rằng để truyền đạt các ý tưởng phương Tây hiệu quả hơn, tiếng Nhật cần được chuyển hoá. Trong số các đề xuất được đưa ra về vấn đề này, những đề xuất táo bạo nhất là của Nishi Amane, người đề xuất thay thế ngôn ngữ viết (kanji và kana) bằng romaji hoặc bảng chữ cái Latinh, để có thể chuyển ngữ trực tiếp các khái niệm phương Tây. Những người khác, như Shimizo Ozaburo, đề xuất loại bỏ kanji (chữ Hán), chỉ sử dụng bảng chữ cái âm tiết có nguồn gốc Nhật Bản gọi là hiragana.

Do đó, ban đầu, hầu hết các từ mới được viết bằng chữ Hán [đây là điều quan trọng, vì nhiều từ Hán Nhật sau này sẽ đi vào tiếng Việt qua con đường Đông Du]. Nhưng vào những năm 1880-1890, tại Đại học Hoàng gia Tokyo, công việc chuẩn hóa các từ chỉ các khái niệm phương Tây đã được thực hiện. Lúc đó chúng được viết bằng chữ Hán + katakana. Tuy nhiên, trong những năm sau đó, các thuật ngữ này bắt đầu được viết bằng hiragana. Năm 1884, Otsuki Fumikako đã giới thiệu các từ mượn (gairaigo) và thống nhất viết chúng bằng katakana. Đó là cách các từ mượn bắt đầu được sử dụng thay vì chuyển ngữ bằng chữ Hán. Do đó, chúng ta có thể kết luận rằng nhu cầu dịch các tác phẩm phương Tây sang tiếng Nhật đã thúc đẩy sự phát triển của tiếng Nhật viết như chúng ta biết ngày nay.

 

  • TIẾP NHẬN VĂN HỌC PHƯƠNG TÂY VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN VĂN HỌC NHẬT BẢN

 

Trong những năm đầu thời kỳ Minh Trị, văn học tiếp tục truyền thống của thời kỳ Tokugawa, tuy nhiên, vào cuối thời kỳ lịch sử này, văn học hiện đại bắt đầu phát triển, chịu ảnh hưởng của các lý thuyết văn học và văn học phương Tây. Chính xác, người ta thường nói rằng tiểu thuyết hiện đại Nhật Bản bắt đầu với Futabatei Shimei và Tsuboishi Shobo (1859-1935). Người sau là dịch giả chuyên về Shakespeare và là người ủng hộ nhiệt thành tiểu thuyết hiện thực, vì ông cho rằng chức năng của văn học và tiểu thuyết không chỉ là giải trí, mà còn phải phản ánh cuộc sống hiện tại, ví dụ như tác phẩm The essence of a Novel (1885) của ông.

Futabatei Shimei đã viết, trong một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của mình, Drifting cloud (1887-89), một bức chân dung tâm lý của một người bình thường, nguyên mẫu của người phản anh hùng, được viết một cách có chủ ý theo phong cách thông tục. Ngoài là tiểu thuyết gia, Futabatei còn là một dịch giả nổi tiếng, người tiên phong trong việc dịch văn học Nga. Ông đã giới thiệu các tác phẩm của Tolstoy, Turgenev, Gogol và Gorki cùng nhiều tác giả khác, điều này đã gây ảnh hưởng lớn đến văn học Nhật Bản. Công việc của ông với tư cách là dịch giả và người hiện đại hóa ngôn ngữ văn học Nhật Bản, đặc biệt là các thì của động từ để có thể tái hiện tốt hơn văn học châu Âu, là rất quan trọng và có lẽ đã làm lu mờ khía cạnh tiểu thuyết gia của ông. Theo Cockerill (2006), Futabatei Shimei đã phát triển hai phong cách văn học khác nhau: một chịu ảnh hưởng của tiểu thuyết gia Nga Turgenev, và một chịu ảnh hưởng rất lớn của Gogol.

Ngoài chủ nghĩa hiện thực, các trào lưu văn học lãng mạn và tự nhiên chủ nghĩa cũng có ảnh hưởng lớn đến thế giới văn học thời kỳ Minh Trị. Thật thú vị khi quan sát rằng, mặc dù ở phương Tây, trào lưu tự nhiên chủ nghĩa đối lập với chủ nghĩa lãng mạn, điều này lại không xảy ra ở Nhật Bản, vì có những tác giả sử dụng cả hai phong cách văn học trong các tác phẩm của mình, như trường hợp của Shimazaki Töson (1873-1943), người đã giành được hai giải thưởng cùng lúc, một giải về thơ lãng mạn và một giải với một tác phẩm văn xuôi hiện thực trần trụi, có tựa đề The Broken Commander (1906), và miêu tả cuộc sống hàng ngày của một nhân vật thuộc tầng lớp burakumin – những người “bị ruồng bỏ” của Nhật Bản – và trên hết là cố gắng giữ lời hứa với cha mình là không tiết lộ nguồn gốc của mình dưới bất kỳ hoàn cảnh nào.

Nhưng có lẽ hai nhà văn xuất sắc nhất cuối thời kỳ Minh Trị, với đóng góp và giá trị văn học đã vượt thời đại của họ là Mori Ogai và Kinnosuke Natsume, được biết đến với bút danh Natsume Soseki.

4.1. MORI ÖGAI VÀ CÔNG CUỘC HIỆN ĐẠI HÓA TIỂU THUYẾT NHẬT BẢN

Mori Ögai (1862-1922) xuất thân từ một gia đình samurai cấp cao, một gia đình các bác sĩ của một daimyo – trong khi Söseki Natsume tự hào về việc sinh ra trong một gia đình, dù không đạt đến cấp bậc samurai, nhưng là các quan chức cấp cao ở Edo, cha ông là nanushi (giám đốc nghi lễ). Tác phẩm của cả hai, dù hoàn toàn khác biệt về phong cách và chủ đề, đều có điểm chung là ảnh hưởng sâu sắc của văn học phương Tây và hoàn cảnh đó, thay vì làm biến dạng họ, đã làm phong phú thêm họ rất nhiều, giúp họ trình bày di sản văn hóa của mình từ một góc nhìn khác.

Thời trẻ, Ögai được quân đội cử đi học Vệ sinh Quân đội ở Đức, nơi ông ở lại bốn năm để học tập và nghiên cứu tại các trường đại học Berlin, Munich và Leipzig. Việc tiếp xúc với văn hóa Đức đã gây ra một chấn động tinh thần lớn đối với ông. Ông trở thành một bác sĩ quân y nổi tiếng với quân hàm cao, và trong suốt sự nghiệp của mình, ông đã giữ các chức vụ quan trọng cấp nhà nước. Tuy nhiên, ông có một tính cách mâu thuẫn; một mặt là một trí thức chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của phương Tây, mặt khác lại mang phong thái của một sĩ quan quân đội theo kiểu samurai.

Sự nghiệp văn học của ông rất đồ sộ, bao gồm nhiều thể loại khác nhau. Các tác phẩm đầu tiên mang phong cách lãng mạn, như tiểu thuyết đầu tay Maihime (1890), nhưng ông sớm quan tâm đến tâm lý học, lĩnh vực mà ông thường đề cập trong tác phẩm của mình. Tương tự, Ögai rất quan tâm và xử lý khá nhiều thể loại văn học tự truyện, thể loại này đã trở thành một trong những thể loại phổ biến nhất của văn học hư cấu hiện đại. Ông cũng rất quan tâm đến các chủ đề thuần túy Nhật Bản.

Ông đã biên tập nhiều tạp chí khoa học và văn học trong suốt sự nghiệp của mình. Trong giai đoạn đầu làm nhà văn, ông là người bảo vệ nhiệt thành chủ nghĩa duy tâm Đức, mà ông cố gắng dung hòa với chủ nghĩa hiện thực. Nhưng từ năm 1909, phong cách của ông thay đổi, và tác phẩm của ông trở nên phê phán hơn về tình hình Nhật Bản lúc bấy giờ, khi có sự xa cách giữa các trí thức tự do, chịu ảnh hưởng của phương Tây, và những người theo chủ nghĩa dân tộc, ủng hộ một Nhà nước mạnh mẽ. (Sato, 2003: 8). Trong thời kỳ đó, ông đã viết, trong số các tác phẩm khác, Vita Sexualis, về sự thức tỉnh tình dục ở tuổi vị thành niên, với những liên tưởng tự truyện, tác phẩm này đã bị kiểm duyệt ở Nhật Bản trong một thời gian khá dài, vì bị coi là khiêu dâm. Một trong những tiểu thuyết đáng chú ý nhất của thời kỳ này là Seinen (1910) và Chinmoku no To. Những tác phẩm này khó đọc vì tác giả sử dụng nhiều cách chuyển ngữ tên và trích dẫn bằng tiếng nước ngoài và bị coi là hơi ưu tú.

Ögai cũng ủng hộ bình đẳng giới trong nhiều bài báo. Tuy nhiên, câu chuyện tình yêu của ông với một phụ nữ trẻ người Đức đi cùng ông đến Nhật Bản đã thất bại, cả trước sự phản đối kịch liệt của gia đình ông và cấp trên trong quân đội, và chúng tôi cho rằng cú sốc văn hóa mà cô ấy phải chịu ở Nhật Bản không giúp ích gì cho mối quan hệ, vì vậy cô gái trẻ đã trở về Đức. Sau đó, gia đình ông đã sắp đặt cuộc hôn nhân (omial) với một phụ nữ Nhật Bản, nhưng cuộc hôn nhân này cũng thất bại và kết thúc bằng ly hôn. Ông kết hôn lần thứ hai ở tuổi 37, trên đảo Kyushuu.

Ngoài là một nhà văn đáng chú ý, Ögai còn là một dịch giả và nhà truyền bá văn hóa châu Âu nổi tiếng. Ông đã dịch Shakespeare, Wilde và Byron từ tiếng Anh; và Goethe, Heine và Hoffman từ tiếng Đức, cùng nhiều tác giả khác. Ông là dịch giả và biên tập viên của một tuyển tập thơ Pháp và Đức có tựa đề Omokage (1889), do đó, vào thời điểm đó, ở Nhật Bản dễ tìm thấy thơ Đức bằng tiếng Nhật hơn bằng tiếng Anh. Ông cũng giới thiệu triết học và mỹ học Đức và cũng ảnh hưởng đến sự phát triển của sân khấu hiện đại Nhật Bản. Ví dụ, việc dàn dựng một bản dịch của ông về một tác phẩm của nhà viết kịch Na Uy Henrik Ibsen (1828-1906) vào năm 1908 là một trong những sự kiện văn hóa nổi bật nhất trong những năm đó.

Ögai đã tham gia với tư cách là bác sĩ trong Chiến tranh Nga-Nhật (1904-1905) và là bạn của tướng Nogi (1849-1912), anh hùng vĩ đại của cuộc chiến đó. Ông rất ấn tượng trước cái chết của tướng quân và vợ ông, bằng cách tự sát theo nghi thức (seppuku), sau khi Thiên hoàng Minh Trị qua đời, điều này đã khiến ông nghiên cứu và viết về các samurai và các nhà tư tưởng Nho giáo thời kỳ Tokugawa.

Mori Ögai là một trong những ví dụ, giống như các trí thức khác được trình bày trong bài viết này, cho thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa văn hóa và dịch thuật, cũng như công việc của người dịch như một người trung gian văn hóa, không chỉ dịch ngôn ngữ, mà còn dịch các nền văn hóa xa lạ.

4.2. NATSUME SÖSEKI, NHÀ BIÊN NIÊN CỦA THỜI KỲ MINH TRỊ

Natsume Söseki (1867-1916), tốt nghiệp ngành Văn học Anh tại Đại học Hoàng gia Tokyo và có một hồ sơ và phong cách hoàn toàn khác với Ögai, nhưng cùng thời với ông và cùng với ông là người ủng hộ văn học giải trí (yoyu) và sự chiêm nghiệm khách quan về thực tại như một niềm vui thẩm mỹ đối lập với chủ nghĩa tự nhiên thịnh hành trong văn học thời bấy giờ. Söseki cũng hoàn thành việc học của mình ở châu Âu – cụ thể là ở Anh – được Chính phủ Nhật Bản cấp học bổng trong ba năm. Như đã nói, Nhật Bản đã cử nhiều thanh niên xuất sắc ra nước ngoài học tập, và mặc dù khoản trợ cấp kinh tế rất hào phóng bằng yên, nhưng khi đổi tiền thì bị giảm đi rất nhiều, do đó các sinh viên phải trải qua những hoàn cảnh cực kỳ khó khăn về kinh tế; điều này cùng với cú sốc văn hóa khủng khiếp, đã khiến nhiều người trong số họ bị mất cân bằng nghiêm trọng và có những người đã tự sát.

Tình trạng bấp bênh và sự cô đơn đau đớn này cũng ảnh hưởng đến Söseki – người đã kết hôn khi sang châu Âu, để lại gia đình ở Nhật Bản, và điều này đã ảnh hưởng đến ông suốt đời. Để xoa dịu cảm giác bất lực, ông hoàn toàn tập trung vào việc học tập và đọc sách. Sau khi trở về Nhật Bản, ông dạy tiếng Anh tại Đại học Hoàng gia Tokyo, vì đó là một trong những cam kết khi nhận học bổng, nhưng vài năm sau ông đã từ bỏ vị trí giảng dạy để chuyên tâm vào sáng tác văn học. Lúc đó, ông là biên tập viên trang văn học của báo Asahi. Tác phẩm của ông rất đồ sộ, bao gồm nhiều thể loại khác nhau như tiểu thuyết, thơ Trung Quốc, haiku, và thậm chí cả phê bình văn học. (Điều thú vị cần lưu ý là Söseki, giống như nhiều thanh niên cùng tầng lớp xã hội của ông, đã được đào tạo bằng cách nghiên cứu Khổng Tử và Mạnh Tử, cũng như các tác phẩm kinh điển Trung Quốc của các triều đại Đường và Tống).

Söseki, trên hết là một nhà chronicle của thời kỳ Minh Trị, và sự hài hước là một trong những đặc điểm chính của giai đoạn đầu trong tác phẩm của ông. Từ thời kỳ này, các tiểu thuyết nổi tiếng nhất của ông là Wagai wa neko de aru (1905) và Botchan (1906). Có người so sánh ông với nhà văn Anh Charles Dickens, cả về chủ đề và nhân vật mà ông mô tả, cũng như về quy mô tác phẩm của ông.

Các tác phẩm đầu tiên của ông phản ánh ảnh hưởng phương Tây. Tuy nhiên, trong các tác phẩm trưởng thành, ảnh hưởng Nhật Bản chiếm ưu thế. Chủ đề chính trong thời kỳ này là sự cô đơn và cô lập của con người, cũng như sự đối lập giữa tự do cá nhân (như một giá trị phương Tây) và ý thức trách nhiệm xã hội nghiêm khắc ở Nhật Bản. Trong một trong những tiểu thuyết tinh tế nhất của ông, có tựa đề Mön (1911), ông nói về cảm giác tội lỗi và cái giá phải trả khi khuất phục trước tình yêu điên cuồng; Trong một tác phẩm sâu sắc hơn của ông, Kokoro (1914), ông nói về mối quan hệ giữa một người thầy và học trò của mình và cuộc khủng hoảng của các giá trị cũ trong một thời kỳ thay đổi và điều chỉnh lại bộ luật Bushido cho phù hợp với thời đại mới. Ông cũng đề cập đến cái chết của Thiên hoàng Minh Trị và tướng Nogi, điều này đã gây ấn tượng sâu sắc cho ông, giống như Ögai.

 

  • SỰ TIẾP NHẬN TƯ TƯỞNG PHƯƠNG TÂY

 

Trong thời kỳ này, như đã phác thảo, ảnh hưởng của tư tưởng, khoa học và công nghệ nhập khẩu từ phương Tây trong công cuộc hiện đại hóa đất nước là rất quan trọng. Giống như với văn học, nhiều nhà tư tưởng xuất sắc nhất thời bấy giờ là phương tiện giới thiệu triết học, lịch sử, luật pháp và khoa học phương Tây. Trong bài viết này, chúng tôi đã quyết định giới thiệu hai tác giả này, Fukuzawa Yukichi và Nitobe Inazo, vì chúng tôi cho rằng họ là những nhân vật tiêu biểu cho sự mở cửa ra thế giới bên ngoài, điều đã thúc đẩy sự tiếp nhận tư tưởng phương Tây ở Nhật Bản và, như trường hợp của Nitobe, họ còn quan tâm đến việc diễn giải và trình bày văn hóa Nhật Bản một cách dễ hiểu cho cộng đồng quốc tế, trở thành những người dịch và phiên dịch thực sự của các nền văn hóa xa lạ.

5.1. FUKUZAWA YUKICHI VÀ NHÓM MEIROKUSHA

Một trong những nhóm trí thức tiêu biểu nhất đề xuất hiện đại hóa và Tây hóa Nhật Bản, được gọi là Meirokusha – nghĩa đen là hiệp hội năm thứ sáu của thời kỳ Minh Trị, được đặt tên theo năm thành lập – Lãnh đạo chính của nhóm này là Fukuzawa Yukichi (1835-1901). Fukuzawa là một samurai thuộc tầng lớp thấp, nhưng rất tham vọng. Thời trẻ, ông dành thời gian nghiên cứu vũ khí phương Tây và tiếng Hà Lan, vì vào thế kỷ XIX, một trong số ít cộng đồng phương Tây mà Nhật Bản duy trì quan hệ thương mại, mặc dù có nhiều hạn chế, là với người Hà Lan. Tuy nhiên, ông sớm chuyển sang tiếng Anh, vì ông hiểu rằng nó sẽ hữu ích hơn nhiều để giao tiếp với phương Tây trong tương lai gần. Năm 1860, ông đi Mỹ trong một phái đoàn chính thức, và sau đó thực hiện các chuyến đi xuyên đại dương khác, những trải nghiệm này được ông ghi lại trong cuốn sách của mình: “Seiyō jiyō” (Tình hình phương Tây). Tác phẩm nói trên đã gây ảnh hưởng lớn trên toàn quốc và biến Fukuzawa trở thành người tiên phong trong việc phổ biến thế giới phương Tây ở Nhật Bản. Ông cũng viết Gakumon no Susume (Động lực học tập), chịu ảnh hưởng của ý tưởng Khai sáng nhưng cũng mang tính Nho giáo, về sự hoàn thiện cá nhân thông qua giáo dục.

Fukuzawa đã tố cáo những bất công của chế độ Tokugawa và ủng hộ việc ban hành các nguyên tắc dựa trên Luật Tự nhiên, về quyền tự do của mọi người, về chủ quyền và quyền tự quyết của các dân tộc. Tương tự, ông là một trong những người thúc đẩy giáo dục tiểu học phổ cập và công lập. Nhưng, với công việc phê bình xã hội của mình, ông luôn muốn độc lập với các thể chế chính phủ.

Ông đã nhiệt thành bảo vệ quyền và tự do của phụ nữ Nhật Bản, giống như Mori Ögai. Đặc biệt, trong tác phẩm Shin onnadaigaku (1895), ông công khai ủng hộ bình đẳng giới, khẳng định rằng đạt được mục tiêu này là nền tảng cho sự hiện đại hóa Nhật Bản. Tác phẩm Shin onnadaigaku rất cách mạng vào thời điểm đó vì Fukuzawa đã bác bỏ từng điểm một hiệp ước thời kỳ Tokugawa, mang tính chất tân Nho giáo và không rõ tác giả, có tựa đề Onnadaigaku, đây là một loại Bushido dành cho phụ nữ và nói về những nghĩa vụ và yêu cầu đạo đức khủng khiếp mà nguyên mẫu của người phụ nữ có học thức thuộc tầng lớp thượng lưu thời bấy giờ phải đáp ứng, trong đó phản ánh sự phân biệt đối xử to lớn mà phụ nữ samurai và phụ nữ Nhật Bản nói chung phải chịu đựng.

5.2. NITOBE INAZO: NHÀ NGOẠI GIAO VÀ NHÀ TƯ TƯỞNG THIÊN CHÚA GIÁO

Nitobe Inazo được coi là một trong những nhân vật tiêu biểu nhất của tư tưởng Thiên Chúa giáo ở Nhật Bản trong thời kỳ Minh Trị và nửa đầu thế kỷ XX, cùng với Uchimura Kanzo, Nijima Jö và Hiromichi Kozaki. Nitobe sinh ra ở Morioka (1862-1933), và có dòng dõi samurai cấp cao, ông là một nhà khoa học chính trị, luật gia, nhà nghiên cứu và giáo sư xuất sắc tại nhiều trường đại học Nhật Bản. Ông cũng là nhà ngoại giao – ông từng là phó tổng thư ký Hội Quốc Liên (1920-1926) – và là người tiền thân của UNESCO.

Ông là một tín đồ Quaker và kết hôn với một phụ nữ Mỹ theo đạo Quaker từ Philadelphia – và cũng trải qua cuộc Minh Trị Duy Tân rất gần gũi. Với tư cách là nhà ngoại giao, ông có ảnh hưởng lớn đến quan hệ quốc tế, vì mong muốn lớn nhất của ông là giúp người Nhật được hiểu ở nước ngoài và ông đã đưa ra một câu nói tóm tắt ý tưởng của mình: “Tôi muốn trở thành một cây cầu bắc qua Thái Bình Dương”. Ông đã biến đối thoại giữa các quốc gia thành mục tiêu chính trong sự nghiệp chuyên môn và cuộc đời mình. Công việc trung gian của ông giữa Hoa Kỳ và Nhật Bản rất quan trọng, và được tăng cường từ năm 1930, khi mối quan hệ giữa hai nước bắt đầu trở nên trầm trọng hơn. Ông là một người theo chủ nghĩa hòa bình kiên định, luôn phản đối việc Nhật Bản tham gia vào bất kỳ cuộc chiến tranh nào, vì ông cho rằng chiến tranh là vô ích. Ông qua đời vào ngày 15 tháng 10 năm 1933 ở tuổi 71 tại thành phố Victoria, trong một nhiệm vụ ngoại giao ở Canada.

Nitobe đã viết một khối lượng tác phẩm đồ sộ về nhiều chủ đề khác nhau: Quan hệ Quốc tế, Luật pháp, Triết học so sánh, Tôn giáo so sánh, Chính sách thuộc địa, Đạo đức, v.v…, được tập hợp trong 24 tập – một phần tư được viết bằng tiếng Anh. Ông cũng viết nhiều sách và bài báo về Nhật Bản và mối quan hệ giữa phương Đông và phương Tây, nhưng có lẽ tác phẩm nổi tiếng nhất của ông ở cấp độ quốc tế và được dịch nhiều nhất là Bushido. The Soul of Japan (1899), ban đầu được viết bằng tiếng Anh, trong đó ông trình bày văn hóa của mình cho phương Tây thông qua một ngôn ngữ nước ngoài.

Nitobe cũng là một trong những tác giả đầu tiên chỉ ra những khó khăn trong việc dịch giữa các ngôn ngữ và văn hóa xa lạ. Do đó, ông ủng hộ việc “ngoại hóa” các bản dịch để làm nổi bật sự xa cách của chúng; cả sự xa cách về thời gian, lẫn sự xa cách về địa lý và văn hóa, giữ nguyên các yếu tố văn hóa trong ngôn ngữ gốc nhưng chuyển ngữ sang chữ Latinh, và mặt khác, ông cố gắng giải thích chi tiết chúng bằng cách so sánh với các yếu tố văn hóa và thể chế tương đương của văn hóa đích, để làm cho chúng dễ hiểu hơn đối với cộng đồng tiếp nhận. Do đó, Nitobe giải thích ý định của mình với tư cách là dịch giả và người trung gian văn hóa trong lời tựa cho lần xuất bản đầu tiên của tác phẩm nói trên về Bushido: “Xuyên suốt bài viết, tôi đã cố gắng minh họa bất kỳ điểm nào tôi đưa ra bằng các ví dụ song song từ lịch sử và văn học châu Âu, tin rằng những điều này sẽ giúp đưa chủ đề đến gần hơn với sự hiểu biết của độc giả nước ngoài.”

Và để kết thúc bài viết này, chúng tôi sẽ trích dẫn một số ví dụ từ tác phẩm Bushido. The Soul of Japan, trong đó Nitobe đưa ra ý kiến về việc dịch các yếu tố văn hóa đặc trưng của văn hóa Nhật Bản và cả các nền văn hóa khác:

1-. “Việc sử dụng thuật ngữ gốc (bushido) cũng được khuyến khích vì lý do này, rằng một giáo lý, giới hạn và độc đáo, tạo ra một kiểu tư duy và tính cách đặc biệt, rất địa phương, phải mang dấu hiệu của sự độc đáo trên khuôn mặt của nó.”

2-. “Hơn nữa, một số từ có âm sắc quốc gia, biểu cảm đặc trưng của chủng tộc đến nỗi bản dịch tốt nhất cũng chỉ có thể làm chúng mất đi ít nhiều, chưa kể đến sự bất công và xúc phạm rõ ràng.”

Chú thích cuối trang:

  1. Hiệp ước song phương năm 1854 được gọi là Hiệp ước Kanagawa. (Hane, M. 2001:231)
  2. Varley, P., 1984: 206-207.
  3. Chính quyền quân sự, người đứng đầu tối cao là shogun. Mạc phủ Tokugawa bắt đầu vào năm 1603 và kết thúc vào năm 1868.
  4. Lãnh chúa phong kiến.
  5. Của các phiên (han), của Choshü, hiện nay là Tỉnh Yamaguchi, và của Satsuma, hiện nay ở Kyushü.
  6. Satsuma hiện nay là Kyushü và Choshü là Tỉnh Yamaguchi.
  7. Điều quan trọng cần lưu ý là trong suốt thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, ở châu Âu, học thuyết khoa học đã tranh luận giữa Chủ nghĩa Lập hiến hình thức và Chủ nghĩa Lập hiến thực chất, do đó ở Nhật Bản, nơi nhập khẩu mô hình lập hiến từ phương Tây, con đường hướng tới Chủ nghĩa Lập hiến thực chất là dài hơn nhiều là điều hợp lý.
  8. Katana, kiếm dài Nhật Bản.
  9. Theo Florentino Rodao (2002:91), phái đoàn Iwakura đã lên kế hoạch ở lại Madrid và Lisbon hai tuần, nhưng do tình hình chính trị căng thẳng ở Tây Ban Nha thời Cộng hòa thứ nhất vào những ngày đó, họ đã bỏ qua điểm dừng chân ở bán đảo Iberia.
  10. John Stuart Mill là một nhà triết học của chủ nghĩa vị lợi và là một trong những “cha đẻ” của chủ nghĩa tự do kinh tế ở Anh vào thế kỷ XIX.
  11. Những tham khảo về các bản dịch tác phẩm của Cervantes này, chúng tôi trích từ Bài giảng của Tiến sĩ Shimizu Norio, Giáo sư Khoa Ngữ văn Tây Ban Nha của Đại học Jöchi (Tokyo), tại Casa Asia (Barcelona), ngày 17 tháng 6 năm 2005.
  12. Được trích dẫn trong tác phẩm Translating the West. Language and political reason in 19th century Japan, của D. Howland.
  13. Kiyöka, 1988:174-223. Nishikawa. 1993: 493-506.: UNESCO: International Bureau of Education
  14. Cuốn Đại học mới dành cho phụ nữ. (Bản dịch của tác giả).
  15. Gonzalez Vallés. 2000:532.
  16. Các tác phẩm này đã được dịch sang tiếng Tây Ban Nha từ tiếng Nhật bởi Giáo sư D. Jesús Gonzáles Vallés và Botchan cũng bởi Giáo sư D. Fernando Rodríguez Izquierdo. Cũng có một bản dịch sang tiếng Catalan của Tomari-Sans, được phân tích bởi Carmen Mangirón trong công trình nghiên cứu chưa xuất bản của cô, El tractament dels elements culturals a la novel.la Botxan, de Natsume Söseki (2002), của Đại học Tự trị Barcelona.
  17. Cánh cổng. (Bản dịch của tác giả).
  18. Amalia Sato viết lời tựa cho tác phẩm của Mori Ogai, En Construcción, được xuất bản tại Buenos Aires năm 2003.
  19. Tuổi trẻ, Tháp Im lặng. (Bản dịch của tác giả).
  20. Hòn đảo phía nam Nhật Bản, nơi Ögai được bổ nhiệm vào năm 1899.
  21. Các lý thuyết của nhà thần học và nhà tư tưởng Đức cuối thế kỷ XIX, Schleiermacher (1768-1834) về sự cần thiết phải ngoại hóa các bản dịch, sau đó được Venuti (1995) áp dụng.
  22. “Xuyên suốt bài viết, tôi đã cố gắng minh họa bất kỳ điểm nào tôi đưa ra bằng các ví dụ song song từ lịch sử và văn học châu Âu, tin rằng những điều này sẽ giúp đưa chủ đề đến gần hơn với sự hiểu biết của độc giả nước ngoài.” Bản dịch của tác giả.
  23. “Việc sử dụng thuật ngữ gốc (bushido) cũng được khuyến khích vì lý do này, rằng một giáo lý giới hạn và độc đáo, tạo ra một kiểu tư duy và tính cách đặc biệt, rất địa phương, phải mang dấu hiệu của sự độc đáo trên khuôn mặt của nó.” Bản dịch của tác giả.
  24. Hơn nữa, một số từ có âm sắc quốc gia, biểu cảm đặc trưng của chủng tộc đến nỗi bản dịch tốt nhất cũng chỉ có thể làm chúng mất đi ít nhiều, chưa kể đến sự bất công và xúc phạm rõ ràng. Bản dịch của tác giả.

Thư mục tham khảo:

CABEZAS, Antonio. La literatura japonesa: Hiperión, Barcelona, 1996.

COCKERILL, Hiroko. 2006, Style and Narrative in Translations. The Contribution of Futabatei Shimer. St. Jerome, Manchester, 2006

GONZÁLEZ VALLÉS, J. Historia de la filosofía japonesa: Tecnos. Madrid, 2000

GORDON, Andrew. A Modern History of Japan. From Tokugawa times to the present: Oxford University Press, Oxford, 2003.

HANE, Mikiso. Premodern Japan. A Historical Survey: Westerview Press Inc. USA, 1991.

-Modern Japan. A historical survey. Westerviewpress, 3rd ed. USA, 2001.

-Breve Historia de Japón. (Trad, Esther Gómez Parro): Alianza Editorial. Madrid, 2003

HOWES, John F.Nitobe Inazo: Japan’s Bridge across the Pacific. Westerwiew press. S. Francisco/Oxford, 1993/1995

HOWLAND, Douglas. Translating the West. Language and Political Reason in 19th century Japan. University of Hawaii Press. Honolulu, 2002.

ITOH, Mayumi. Globalization of Japan. Japanese Sakoku Mentality and US efforts to Open Japan: Mac Millan. London, 2000.

JANSEN. B, Marius. The Making of Modern Japan: The Backnap Press of Harvard University Press. London, 2000. JANSEN. B, Marius and ROZMAN, Gilbert. Japan in Transition. from Tokugawa to Meiji: Princeton University Press. New Jersey, 1986.

KEENE, Donald. Appreciations of Japanese Culture: Kodansha International. Tokyo, 1971.

KIYOOKA, Eiichi. Fukuzawa Yukichi on japanese women, Tokyo: University of Tokyo Press, 1988, pp. 174-223.

LANZACO SALAFRANCA, Federico. Introducción a la Cultura Japonesa. Pensamiento y Religión: Universidad de Valladolid. Servicio de Publicaciones e intercambio cultural. Caja Duero. Valladolid, 2001.

-Los valores estéticos de la cultura clásica japonesa. Verbum. Madrid, 2003.

MORI, Ögai. En Construcción. (Prólogo de Amalia Sato): Adriana Hidalgo editora. Buenos Aires, 2003.

Vita Sexualis.. (Trad, Fernando Rodríguez Izquierdo): Trotta. Madrid, 2001.

NATSUME SÖSEKI, Soy un gato: Selección de episodios. (Trad, Montse Watkins): Luna Books. Tokyo, 1996.

Botchan. Chiquillo. (Trad, Fernando Rodríguez Izquierdo):Luna Books. Tokyo, 1997.

Kokoro (Trad, introducción y notas de: Gredos, Madrid, 2003.Carlos Rubio)
NISHIKAWA, S. “Fukuzawa Yukichi”. Prospect: the quarterly review of comparative education. no 3/4 Vol
NITOBE, Inazo. Bushido, The Soul of Japan: Tuttle Publishing .Boston, Massachusset, 2001.
NUKARIYA, Kaiten. The Religion of the Samurai: a study of Zen philosophy and discipline in China and Japan: Rowman and Littlefield. London /N.J. 1973.
REVON, Michael. Antología de la Literatura japonesa (trad: Mercé Comés). Colecc. Biblioteca Universal: Círculo de Lectores, Barcelona, 2000.
REISCHAUER, Edwin. O. The japanese. Charles E. Tuttle Co.24th printing. Tokyo, 1981. SHIROKAUER, C. A Brief History of Japanese Civilization. Wadsworth. Thomson Learning, Canadá, 1993.
VARLEY, Paul. Japanese Culture: Hawai University Press, 3rd ed. Honolulu, 1984.

CATEGORIES
TAGS
Share This

COMMENTS

Wordpress (0)