MẢNH VỠ CỦA THẾ GIAN (tiểu luận) – Pietro Citati
Nguyễn Quý Q. An dịch từ tiếng Ý “I fratumi del mondo” (1978) – Pietro Citati
Đứa trẻ và cuốn sách
Trong số ít những thú vui mới mà cuộc đời ban cho một người đàn ông tứ tuần, tôi tin rằng điều tuyệt vời nhất là đọc sách cho một đứa trẻ mới lên bốn, lên năm. Đứa trẻ ấy có thể là con, là cháu, hay cũng có thể là một vị khách nhỏ mà ngẫu nhiên số phận đã vui đùa đưa đến trú ngụ dưới mái nhà ta trong một dạo. Mỗi tối, cùng một cảnh ấy lại tái diễn. Khi bóng cây đổ dài và khu vườn khép mình lại, run rẩy trong bờ cõi riêng, đứa trẻ đến điểm hẹn, trung thành với chiếc đồng hồ nội tâm của nó. Nó leo lên chiếc ghế nhựa nhỏ và chuẩn bị lắng nghe với đôi mắt mở to, cái ngưỡng mộ ấy lát nữa sẽ xen lẫn với nước mắt, và tiếng cười không thể kìm nén trước nỗi khôi hài của thế gian sẽ nhường chỗ cho niềm vui thú kéo dài, triền miên trước những phức tạp đầy chất tiểu thuyết của nó. Cuốn sách thay đổi mỗi tối. Có hôm là một cuốn sách về động vật: những con voi khổng lồ tắm mình trong một dòng sông châu Phi, cuộc tử chiến của bạch tuộc và cá chình moray, chiếc lưỡi luồn lách nhớp nháp của con thú ăn kiến, bộ lông xù như cỏ của con lười. Có hôm là những cuộc phiêu lưu của Pinocchio, bị hai tên sát nhân truy đuổi suốt những giờ đêm khắc khoải, nhẹ bẫng như trên đôi cánh của con bồ câu lớn, hay bị giam cầm trong bẫy và trong bụng cá mập. Rồi Hector sẽ lại giết Patroclus và Achilles giết Hector, như đã xảy ra suốt ba ngàn năm nay trên đồng bằng Troia hoang vắng, khơi dậy những giọt lệ không thể ngăn được trong đôi mắt đau buồn và giận dữ ấy.
Tại sao đọc sách cho một đứa trẻ lại đẹp đến thế? Tại sao khoảnh khắc người lớn gặp gỡ một sinh linh đang đi những bước đầu của cuộc đời lại là một sự kiện được mọi con người và mọi nền văn hóa ấp ủ từ lâu? Bao nhiêu nhà giáo dục đã dạy chúng ta rằng, vào lúc ấy, trước mặt ta là một tạo vật với những đường nét còn chưa định hình; và chúng ta phải tặng cho nó tinh túy kinh nghiệm của mình, trao cho nó tất cả những gì ta biết, uốn nắn nó “theo hình ảnh và sự tương đồng của chúng ta”, như Thiên Công đã làm trong Vườn Địa Đàng, để con người mới có thể bước vào sự mênh mông của thời gian với một lớp áo giáp. Tôi phải thú nhận rằng mình chưa bao giờ cảm nhận được bất kỳ thú vui nào trong số này. Cái ý nghĩ hiện thân, theo một cách nào đó, cho “hình ảnh người cha”: cái ý tưởng trở thành đấng tối cao, tay nâng cao những phiến đá khắc Luật pháp; nhà giáo dục của các dân tộc, người thầy được tôn kính bởi một đám môn đệ rụt rè, tất cả những điều đó khiến tôi ghê tởm một cách sâu sắc nhất. Tôi không mong muốn ai đó giống mình; và ngay cả việc nói ra một sự thật, gợi ý một ý tưởng như là của riêng mình rồi đề nghị và khuyên bảo người khác, đối với tôi, dường như là một sự xúc phạm đến linh hồn của trái đất.
Khi tôi đọc, cố gắng điều chỉnh giọng nói như một người kể chuyện rong hay một ngâm du thi sỹ, chỉ sau vài phút tôi nhận ra mình chẳng dẫn dắt hay giáo dục ai cả. Vị khách, kẻ đang chiếm cứ các bức tường của ngôi nhà một cách đầy ngạo nghễ, chơi những cuốn sách của tôi như thể đang trình diễn trên dương cầm một bản nhạc mà nó đã chọn vì một lý do còn mù mờ. Nó thử một phím, rồi lại từ chối một phím khác. Nó thử một âm thanh, và dừng lại nếu không thích. Nó bắt tôi kể đi kể lại một câu chuyện cả trăm lần: một câu chuyện khác, mà với tôi dường như cũng hay không kém, lại làm nó chán ngán; và nó mất kiên nhẫn, thở dài, nổi giận trước một câu chuyện thứ ba. Nó yêu con lười và con cá chình moray, nhưng lại phớt lờ con chó đồng cỏ: nó yêu Christopher Columbus, nhưng Orlando, vì một lý do bí ẩn nào đó, lại khiến nó thấy khó ưa. Cuối cùng, tôi quên đi những kế hoạch giáo dục ngớ ngẩn của mình, và chỉ chơi thứ âm nhạc mà nó ưa thích. Thế là tôi hiểu ra mình chỉ là một kẻ trung gian: một sứ giả, mà một tinh thần ham học hỏi, sống động và uy quyền, nhưng cũng kiên nhẫn và hợp lý như một vị quan Trung Hoa, đã cử đi chu du khắp thế gian, để thấy tất cả những gì cần phải thấy, khám phá tất cả những gì cần phải khám phá, biết những điều có thể biết và không thể biết, rồi mang về cho nó tinh chất và cốt tủy của chúng.
Rồi buổi đọc kết thúc; và đứa trẻ chạy biến, lại trèo cây hay đào hào trong cát, như thể muốn rũ bỏ gánh nặng và sự phiền toái của những điều nó vừa nghe. Chúng không còn xuất hiện trở lại trong ngày và dường như mọi dấu vết đã biến mất. Nhưng có những khoảnh khắc mặc khải. Trước và sau giấc ngủ, khi đứa trẻ dường như buông mình cho chính nó, trong những cuộc độc thoại lí nhí kéo dài mà kinh nghiệm của nó được khơi lại và tổng kết, tên của những cuốn sách lại quay về trên môi nó: con voi lại tắm mình trong sông, Patroclus lại được người anh em kết nghĩa của mình khóc thương một lần nữa, Pinocchio lại bay trên đôi cánh của con bồ câu, năm nhà thám hiểm người Ý lại thực hiện chuyến du hành phiêu bạt đến Paris. Mọi thứ đã được điều chỉnh, biến đổi và đồng hóa, đến mức không thể nhận ra: những tin tức mà tôi mang về làm quà từ các cuộc thám hiểm của mình đã trở thành một phần của một định mệnh đang được dệt nên, âm u và khôn dò, ngay bên cạnh định mệnh của tôi. Chúng không còn thuộc về tôi nữa: chúng thuộc về một “kẻ khác”, kẻ mà tôi không muốn tạo ra bất kỳ ảnh hưởng nào. Đôi khi, tôi có cảm giác mình có thể hình dung được quá khứ và tương lai của tất cả những người tôi đã quen biết và gần gũi trong một thời gian, hòa vào đời họ như một chiếc bóng. Nhưng tôi có ấn tượng rằng mình sẽ không bao giờ có thể biết được, bằng bất kỳ cách nào và vì bất kỳ lý do gì, số phận của tạo vật mà mỗi tối tôi vẫn kể cho nghe những câu chuyện khác nhau.
Giữa những câu chuyện được đem đến cho trí tò mò con trẻ, nó sẽ ưa thích – như một nhà kinh điển – những khả thể cực đoan. Nó tôn thờ sự nghiêm túc đến rợn người của bi kịch: chuỗi sự kiện khép kín, từ nút thắt này đến nút thắt khác, lao đến một kết cục khiến nó sợ hãi hay khóc thương, nhưng biết rằng không thể nào tránh được. Hoặc nó chọn sự hoàn hảo không kém phần rợn người của hài kịch, tiếng cười vỡ òa, trò chơi trừu tượng của những câu đối đáp, những sự kiện thách thức lẽ thường, lời nói điêu không tưởng; và chính nó cũng từ bỏ vai diễn của người anh hùng sử thi và hiệp sĩ để trở thành tên hề của chính mình. Mọi thứ nằm giữa hai thái cực này – câu chuyện hiện thực hay giai thoại tình cảm – đều làm nó chán ngán. Trong số các sáng tạo của những bậc vĩ nhân, nó đặc biệt ghê tởm những trò đùa nhỏ, những lời mỉa mai, những màn nhại lại mà ngày nay “văn chương thiếu nhi” dùng để ve vãn trí thông minh tinh nghịch của các bậc cha mẹ. Nếu ai đó dám chế giễu Achilles, nhạo báng Pinocchio hay xúc phạm nỗi đau của con bạch tuộc bị cá chình moray đánh bại, thì đôi mắt trẻ thơ sẽ vẩn đục, như thể đứng trước một sự sỉ nhục giáng vào lòng kiêu hãnh non nớt của nó.
Hình thức tự sự mà nó ưa thích thì đơn giản và cô đọng: nó thiên về sự lặp lại, cách điệu hóa, trò chơi hình học, giống như các cấu trúc tuyến tính và bộ ba của truyện cổ tích. Nhưng khốn thay cho ai cho rằng nó yêu thích sự đơn giản và hiển nhiên của nội dung! Nó muốn biết thiện và ác là gì, cha và mẹ là gì: thế nào là anh hùng, hèn nhát, tốc độ, sinh ra, chết đi, sa ngã, bảo vệ và phiêu lưu: những mối quan hệ nào đã kết nối các khía cạnh đa dạng của thế giới lại với nhau; và nó cố gắng một cách vô vọng để hiểu được con số và thời gian. Vậy thì những câu chuyện không có chiều sâu và không có bí ẩn sẽ giúp ích được gì cho nó? Những cuốn sách mà nó không ngừng đòi hỏi từ người đọc của mình là những câu chuyện biểu tượng vĩ đại, đại diện và đan xen số phận con người, như Iliade (sử thi Iliad) và Odissea (sử thi Odyssey), Cenerentola (Nàng Lọ Lem), La bella e la bestia (Người đẹp và quái vật), Robinson trên hoang đảo, Pinocchio: những cuốn sách đơn giản, tuyến tính và đôi khi ngây thơ hời hợt, nhưng phức tạp, đa nghĩa và gần như bí truyền ở tầng sâu, gợi cho chúng ta hàng trăm cách diễn giải khác nhau, tất cả đều đúng như nhau. Không quan trọng là bây giờ nó chỉ nắm bắt được một phần nhỏ ý nghĩa của chúng. Nếu nó để những câu chuyện này lắng đọng trong tâm trí, nếu khi lớn lên nó tiếp tục tra cứu và lắng nghe chúng trong chính mình như bây giờ nó đang lắng nghe từ miệng người khác, cuối cùng nó sẽ hiểu được lý do tại sao nó vừa là Achilles vừa là Ulysses, vừa là Lọ Lem vừa là Robinson, vừa là Quái vật hấp hối vừa là con rối gỗ chưa từng được sinh ra.
Được nuôi và bảo vệ bởi chòm sao biểu tượng vĩ đại này, nó có thể băng qua khu rừng thời gian một cách bình an vô sự. Nhưng, có lẽ, chúng ta đang tự ảo tưởng. Chẳng bao lâu nữa đứa trẻ sẽ lớn lên, sẽ đến trường, sẽ học những sự thật nửa vời và những điều xấu xa của “hệ thống giáo dục”, sẽ nghe những bài diễn văn tầm thường của người lớn, sẽ gặp những cuốn sách ngớ ngẩn, sẽ phải chịu đựng sự lặp lại không ngừng, chết người, thứ tạo nên tấm vải liền mạch của cuộc sống chúng ta. Vào lúc đó, chúng ta sẽ tin rằng điều khó khăn nhất hoàn toàn không phải, như người ta vẫn tưởng, là “trở thành chính mình”: bởi vì một đứa trẻ rất dễ dàng là chính nó, nó chọn lựa bản chất của mình một cách nhanh chóng và chắc chắn, miễn là hoàn cảnh không cản trở và xúc phạm nó một cách không thể sửa chữa. Điều khó khăn, thay vào đó, là “giữ vững chính mình”, bảo vệ bản chất tinh tế và dễ bị ảnh hưởng của tâm hồn mình khỏi những tác động bên ngoài.
Vậy thì, phải làm gì đây? Từ bỏ vai trò sứ giả của mình ư? Trở thành những người cha? Kiên nhẫn xây những bức tường thật cao, để giữ cho những xáo trộn và nguy hiểm tránh xa những cái cây trong vườn? Xây một cái lồng kính và nhốt vị khách của chúng ta vào trong đó, để nó có thể bảo tồn cái tôi đã hình thành của mình? Như lẽ thường tình gợi ý, điều đó là không thể. Với sự lo âu, với nỗi thống khổ, với niềm vui, chúng ta phải cho phép cuộc đối đầu giữa cái tôi và thế giới diễn ra. Không ai có thể giúp người khác giữ vững chính mình. Chúng ta phải đau đớn để cho mọi chuyện xảy ra, để cho sự cứu rỗi hay sự hủy hoại một lần nữa được vẽ nên trên một số phận trẻ trung mong manh, như đã từng xảy ra biết bao lần.
Thế gian vỡ vụn
Một đứa trẻ gần sáu tuổi lần đầu tiên đến trường. Nó không thông minh hơn, mạnh mẽ hơn hay hoạt bát hơn những đứa trẻ khác. Nó đang ở trong giai đoạn của cuộc đời mà mọi thứ vẫn còn có thể, và một đứa trẻ có thể trở thành thiên tài hoặc kẻ ngốc, nhà tư tưởng hoặc người hành động, người hiền lành hoặc kẻ độc ác, bởi vì cha và mẹ, trường học và xã hội vẫn chưa áp đặt cho nó một sự lựa chọn. Khi chúng ta nhìn vào mắt nó, đôi mắt dường như không che giấu bí mật nào trong khi lại chứa đựng không biết bao nhiêu hình ảnh khôn dò, chúng ta bất giác rùng mình. Chúng ta trở nên lo lắng và bất an. Chúng ta sợ rằng bất cứ điều gì xảy ra, bất cứ điều gì nó nhìn thấy hay nghe thấy, bất kỳ “luật lệ” hay “sự thật” nào tuột ra từ môi chúng ta, đều có thể ảnh hưởng mãi mãi đến tương lai của nó. Mỗi lời nói có thể đẩy nó lên những đường ray sắt lạnh, nơi định mệnh của chúng ta đã được vạch sẵn. Chúng ta muốn vòng tròn những khả năng của nó vẫn rộng lớn, và nó được chơi đùa trong đó thật lâu, mà không biết rằng mình đang chơi đùa với chính số phận của mình: chúng ta muốn nó nấn ná, dừng lại, chờ đợi, chờ đợi, cho đến khi con đường duy nhất của nó mở ra, hoặc tất cả các sợi dây khả năng hòa vào một mối duy nhất, trong đó nó bị mắc kẹt một cách diệu kỳ.
Trong khi những điều này đang được chuẩn bị trên đầu nó, nó háo hức lắng nghe những tiếng nói của thế gian. Nó nghiên cứu cấu trúc bên trong của cái tổ kiến khổng lồ, những con đường, những căn phòng, những ngã tư: nó chơi với con chó trong nhà, mà trong đó nó nhận ra một kẻ tương đồng với mình; nó chiêm ngưỡng trên truyền hình những vực thẳm của biển cả, nơi cá nhà táng và mực khổng lồ tiếp tục cuộc chiến sinh tử, và những loài cá kỳ lạ với đôi mắt lân tinh cùng một chiếc đèn nhỏ lủng lẳng cố gắng phá vỡ bóng tối vĩnh cửu một cách vô vọng. Nó nhìn thấy bằng con mắt tưởng tượng sinh vật đầu tiên, trườn bò trên những bờ biển còn hoang vắng của trái đất: nó lắng nghe với niềm vui và nỗi buồn những cuộc phiêu lưu của Alexandros Đại đế, và khóc nức nở khi người anh hùng qua đời, đưa mắt ra hiệu chào những người lính đang lặng lẽ diễu hành qua giường của ông.
Từ vài năm nay, vương quốc của ngôn từ và âm thanh gần như chẳng còn bí ẩn gì với nó. Nó dạo bước trong vương quốc này với vẻ cao ngạo, như thể ấy là của riêng nó, và chỉ cần một cái ra hiệu của nó là những tiếng vọng của từ sẽ đột nhiên thức tỉnh. Khi tinh thần bông đùa chiếm hữu, nó bắt chước giọng nói của người khác: âm điệu địa phương của một người giúp việc, giọng nói kiêu kỳ trớt qướt của một người bạn, giọng nói lơ đãng trầm ngâm của người cha, những câu ngoại ngữ xì xồ mà đôi tai cực thính của nó thỉnh thoảng bắt được trong dòng người qua lại của thành phố. Nó biết rõ hơn các nhà sư phạm của mình rằng giữa ngôn từ và sự vật có một vực thẳm và không phải cứ sở hữu ngôn từ là có thể nắm giữ được những sự vật của cuộc đời và của sách vở. Nhưng khoảng cách này không làm nó bận tâm. Đằng sau mỗi lời nói của nó, một vật thể, một hành động, một con người, một góc của thực tại lại thức tỉnh. Tất cả đều mang một tin tức. Khi nó nói chuyện một mình trong phòng suốt một hồi dài, dường như cả thế giới đang chuyển động, xáo trộn, bùng nổ một cách hỗn loạn với màu sắc, ánh sáng, mâu thuẫn và cuồng nộ, diễn cho nó xem vở hài kịch “rực rỡ và lộng lẫy” hàng ngày của mình.
Một điều khác làm nó bận tâm. Gần đây, nó hay lặp lại với một sự ưa thích kỳ lạ các từ “tuy nhiên”, “thực vậy”, “mặc dù”, “dù sao đi nữa” và, thậm chí, “trong mọi trường hợp”. Tại sao nó lại chọn những từ ngữ yếu ớt và nhạt nhẽo như vậy? Chỉ để bắt chước người lớn, những người rất thích lạm dụng chúng? Nó đã cảm nhận được rằng chúng diễn tả mối quan hệ giữa các sự vật: nguyên nhân, hệ quả, sự phụ thuộc, sự tương đồng, sự đối lập. Với sự nôn nóng của mọi đứa trẻ, nó hiểu rằng các mối quan hệ đang tuột khỏi tay mình: nó không biết các vật thể được sắp xếp trong mối quan hệ thời gian và không gian nào: nó không biết thiện và ác phân chia với nhau ra sao, mối liên kết yêu và ghét khó hiểu nào đã buộc chặt bạn bè và kẻ thù: tại sao con mèo lại bị nghiền nát dưới bánh xe vô tình của ô tô, tại sao Thiên Công, Đấng mà nó nghe nói là vô cùng mạnh mẽ và có trước vạn vật, lại dung thứ cho cái chết và những sai lầm; tại sao một cây thánh giá của sự ô nhục lại phải là trung tâm của tạo hóa. Vì vậy, nó tin rằng có những bí mật. Ở một nơi nào đó, có lẽ trong một cuốn sách, có lẽ trong tâm trí của cha và mẹ, có lẽ ở trường học, nơi mà những đứa trẻ khác đã kể cho nó nghe, đang cất giữ những chìa khóa của thực tại mà nó chưa sở hữu.
Một buổi sáng, nó đến trường. Nó đã chuẩn bị cho hành động này, một hành động mà không ai xung quanh nó cố gắng coi trọng quá mức, với một sự tỉ mỉ phi thường. Nó muốn có cặp sách “của nó”, sách vở “của nó”, bút chì “của nó”: chiếc tạp dề, ngay cả bộ đồng phục kinh khủng, đảm bảo rằng đồ của nó cũng giống như của những đứa trẻ khác. Trong khi sắp bước vào nơi mà các Quy Luật sẽ được giải thích cho nó, mong muốn lớn nhất của nó là được tuân theo những quy luật giống như những người khác. Với một thiện chí và một sự tận tâm gần như khổ hạnh, nó cố gắng đánh thức trong mình những kho báu của sự siêng năng và chuyên cần, vốn ẩn giấu trong mỗi chúng ta. Sáng hôm đó, nó thức dậy sớm hơn thường lệ. Nó rạng rỡ đi trên đường. Nó chỉ tiếc rằng không ai trong số những người nó gặp – bà gác cổng, con trai bà gác cổng, người lao công béo ú và u sầu của Sở Vệ sinh Đô thị, người bán rau ở góc phố, những người qua đường vội vã từ mọi phía – hiểu rằng đó không phải là một ngày bình thường đối với nó, mà là một ngày khai tâm. “Không ai,” sau đó nó nói một cách cay đắng, “nhìn con cả.”
Cùng với những đứa trẻ khác, nó đã chơi đùa hăng say giữa những hàng cây trong sân; và, thoạt nhìn, khuôn mặt nó chỉ toát lên niềm vui và phấn khích. Nhưng niềm thất vọng thì thật khủng khiếp. Từ trường học, nó mong đợi được học cách nhận biết những mối quan hệ giữa các sự vật mà nó vẫn chưa nắm bắt được: những trò chơi của thời gian, những mối liên kết giữa thiện và ác, sự sống và cái chết. Không có điều gì trong số đó được đề cập đến. Thay vào đó, một cái gì đó đã làm nó tổn thương. Những từ ngữ nguyên vẹn, vang vọng và đầy đặn, những từ ngữ mà nó từng mạnh dạn sử dụng để thao túng các đối tượng của thực tại, những từ ngữ mà nó thích thú pha trộn một cách chế giễu – đã bị bẻ gãy, phân mảnh, chia thành các chữ cái. Nó biết con chó, con cá, con khủng long, chiếc ô tô, con sư tử, cuốn sách: màu vàng hay màu đỏ rực rỡ. Nhưng nó không thể hiểu được ý nghĩa của những âm thanh cụt lủn này, của những ký hiệu vô hồn này: “a” như con lừa (asino), “b” như lá cờ (bandiera), “p” như bánh mì (pane), mà bây giờ nó đánh vần với một sự bực bội. Thế giới, vốn mở ra thật rõ ràng và sống động trước mắt nó, đã vỡ vụn; và nó lang thang giữa những mẩu âm thanh này, giữa những tàn tích của các vật thể, mà không hiểu chuyện gì đã xảy ra. “Con cứ tưởng trường học phải đẹp lắm chứ,” nó nói, trong khi một giọt nước mắt to tướng lăn dài trên má.
Tôi không biết vết thương này sâu đến đâu. Thế giới vỡ vụn đã dần dần được tái lập, khi các chữ cái bắt đầu hình thành những từ nguyên vẹn, trong đó nó tìm lại được những từ ngữ ngày xưa của mình. Nhưng một dấu vết vẫn còn đó. Dường như chúng không bao giờ hồi phục hoàn toàn sau cú sốc này: sau khi nhìn thấy chúng bị chia cắt như vậy, nó ít chắc chắn về chúng hơn, như thể tình bạn mà chúng duy trì với thực tại đột nhiên trở nên mơ hồ, đáng ngờ và bất an. Chỉ trong vài ngày, nó đã học được thế nào là sự chia cắt, sự phân mảnh, sự tách biệt, sự trừu tượng – nghệ thuật kinh hoàng mà con người dùng để cố gắng tách rời và hợp nhất sự phức tạp sống động của vũ trụ. Có lẽ trong một khoảnh khắc nó đã hiểu rằng con đường để biết các mối quan hệ giữa các sự vật dài, phức tạp và mệt mỏi đến nỗi chưa ai từng có thể đi hết nó.
Những đứa trẻ bị xúc phạm
Khi đọc những tiểu thuyết của thế kỷ mười chín, ta bắt gặp khắp nơi những đứa trẻ bị ngược đãi và xúc phạm bởi nền sư phạm của người lớn. Những ngôi trường phi lý, những quy định vô nhân đạo, những cuốn kinh thánh phải học thuộc lòng, sự thiếu thốn tình thương, sự cứng nhắc và bạo lực ập đến với chúng ta từ những trang sách mặc khải ấy. Tôi không tin rằng Dickens và Dostoevsky chỉ tuân theo trí tưởng tượng huyễn thị của họ. Về phương diện này, họ là những nhà biên niên sử trung thành của thời đại mình. Nếu chúng ta quay lại với những năm tháng ấu thơ của chính mình, một thời đại khoan dung và hiền hòa hơn nhiều, những lời nói lại hiện về: “trẻ con không được nói chuyện ở bàn ăn”, “hôn tay nữ bá tước đi”, “chép lại ba mươi lần trang 90 của sách tập đọc cho mẹ”, “con hư lắm, và sẽ bị cấm ăn hoa quả mười ngày”, “Thiên Công là đấng hoàn hảo tuyệt đối”, và hàng ngàn câu nói khác, cố gắng biến chúng ta thành những đứa trẻ kiểu mẫu. Ông bà cố, ông bà, cha mẹ chúng ta – lẽ nào họ là những kẻ tra tấn tàn bạo? Họ chỉ nghĩ rằng tuổi thơ là nơi tội lỗi nguyên thủy diễn ra, là Vườn Địa Đàng bị vấy bẩn bởi một lỗi lầm không tên; và họ cố gắng xóa bỏ lỗi lầm này, để bước chân chúng ta có thể tiến thẳng đến thiên đường của tuổi trưởng thành mà không phạm sai lầm.
Với khả năng che giấu gần như vô hạn của mình, những đứa trẻ đã chuẩn bị sẵn sàng những hàng rào phòng thủ. Chúng vâng lời người lớn; và làm sao chúng có thể nổi loạn chống lại Luật pháp, Gia đình, Tôn giáo, Tổ quốc, Cha mẹ? Chúng vâng lời với sự chính xác của những con robot: chúng hôn tay những người bạn đáng ghét nhất của gia đình, im lặng ở bàn ăn, học thuộc lòng tất cả các thuộc tính của Thiên Công, thậm chí chấp nhận sống mười ngày không có quả anh đào. Trong khi đó, chúng đã xây dựng vương quốc của riêng mình: một vương quốc với những bức tường cao ngất, nơi người lớn không thể xâm nhập. Ở đó, chúng sống trong những chiều không gian khác với chúng ta: thời gian không tồn tại hoặc chuyển động với những bước nhảy kỳ lạ của kangaroo, Con Số và Trọng Lượng không có quyền công dân, các chữ cái trong sách nói bằng giọng của những người nói tiếng bụng, Sự Vô Nghĩa, Sự Nhại Lại và Sự Biến Hình tự cho mình là những vị vua tuyệt đối. Ngay khi lời nói của người lớn lọt vào trong những bức tường, chúng liền bị biến đổi, và cuộc sống thô kệch, nặng nề của người lớn trở thành một bức thêu nhẹ bẫng. David Copperfield, Huckleberry Finn, Alice nel paese delle meraviglie (Alice ở xứ sở thần tiên), Pinocchio (Pinocchio) nhắc nhở chúng ta rằng tuổi thơ không phải là một khoảng thời gian, mà là một xứ sở khác, và chỉ những ai là trẻ con hoặc có trí tưởng tượng đủ lớn để trở lại làm trẻ con mới có thể sống ở đó.
Ngày nay, khi tôi nhìn những đứa trẻ bảy, tám tuổi chơi đùa, tôi thấy ghen tị; và tôi nghĩ rằng mình cũng đã muốn được chơi như vậy, với cùng một sự tự do hài hòa trong chuyển động. Những bức tường cao ngất, nơi tuổi thơ từng ẩn náu để tự vệ, đã sụp đổ: bóng tối của sự uể oải, rụt rè và kiêu hãnh đã tan biến. Không ai, hoặc gần như không ai, hành hạ chúng bằng những nghĩa vụ vô lý, và chúng không còn cần phải xua đuổi những áp đặt của cha mẹ và các nhà sư phạm nữa. Giờ đây chúng tự do trèo cây, tự do bộc lộ suy nghĩ của mình: chúng quan sát và phán xét thế giới người lớn với một sự thẳng thắn và một sự phán đoán nhanh nhạy, điều đó không ngừng làm chúng ta kinh ngạc. Chúng không từ bỏ vương quốc của mình: chúng cho chúng ta thấy những kỳ quan của nó dưới ánh mặt trời rực rỡ; nhưng chúng ngày càng táo bạo lao vào mọi lĩnh vực của cuộc sống, ngay khi chúng ta cho chúng một chút kích thích. Khi chúng ta nhìn chúng chơi đùa hoặc trò chuyện với bạn bè, dường như chúng, chứ không phải chúng ta, mới là những người chủ thực sự của thế giới. Làm sao không vui mừng vì điều đó? Làm sao chúng ta có thể không hạnh phúc khi trao vào tay chúng gánh nặng quá sức này?
Cách đây một thời gian, tôi nghe một cô gái nói chuyện trên truyền hình. Cô bé mười bốn tuổi; và có một trong những khuôn mặt thanh tú và đau khổ, khơi dậy lòng thương hại và sự dịu dàng vô ích của người lớn. Không khó để tưởng tượng rằng cô bé đã có một tuổi thơ khép kín và bấp bênh. Người ta hỏi cô về cuốn Cuore (tức Những Tấm Lòng cao cả); và những lời nói thoát ra từ đôi môi trẻ trung ấy lại chính là những từ ngữ quái dị và vô nghĩa mà người lớn dùng để cố gắng giết chết mọi thứ sống động – “lệch lạc”, “cấu trúc hóa”, “hội nhập”, “đối thoại”. Dường như cô bé đang đau khổ dưới sức nặng của chúng, nhưng lại phát âm chúng với một niềm tự hào nào đó, như thể chúng là một bí mật mà chỉ cô và những người bạn cùng trang lứa mới nắm giữ. Trong một khoảnh khắc, tôi tự hỏi liệu khi lớn lên, cô bé có thể vứt bỏ những từ ngữ này sau lưng, giống như những đứa trẻ trong một buổi sáng có thể chối bỏ những trải nghiệm có thể làm chúng ta đau khổ trong nhiều năm. Hay, thay vào đó, bộ áo giáp hóa thạch ấy cuối cùng sẽ nhốt cô bé hoàn toàn trong lớp vỏ chết chóc của nó.
Ai đó đã ngược đãi cô gái ấy mà cô không hề hay biết. Thời đại của chúng ta để cho trẻ em tự do cho đến mười tuổi: sau đó lại bắt chúng phải chịu một cuộc ngược đãi có hệ thống, xảo quyệt hơn nhiều so với thế kỷ trước. Thời của Charles Dickens, người lớn đề xuất cho trẻ em những mô hình hành vi trừu tượng; và một phần di sản của tuổi thơ hãy còn được bảo toàn, được bảo vệ bởi những bức tường vô hình mà mỗi người tự xây dựng bên trong mình. Giờ đây, những người lớn yếu đuối và bất an, hoặc quá tự tin, những người đóng vai nhà sư phạm, đã trở nên xảo quyệt hơn. Họ mang trên mặt chiếc mặt nạ trìu mến và đồng lõa của người cha thấu hiểu, người anh cả, người bạn có kinh nghiệm. Họ không còn rao giảng sự nô lệ, mà là sự giải phóng: họ không mời gọi cúi đầu, mà là ngẩng cao đầu trong cử chỉ nổi loạn. Giờ đây, họ đề xuất những vật thờ của nền văn minh tiêu thụ: giờ đây, những thứ được thờ của duy vật luận tầm thường, thứ tạo thành tôn giáo phổ biến nhất của thời đại chúng ta. Lũ trẻ vừa mới rời khỏi những nơi ẩn náu và sự che giấu của tuổi thơ, vừa mới bước vào thế giới: chúng đang trải qua khoảnh khắc mong manh và không được bảo vệ nhất trong quá trình phát triển của mình; và chúng không thể chống lại những sự quyến rũ này.
Vì vậy, những kho báu tuổi thơ, vốn có thể tự bảo vệ trước sự bạo lực của nền sư phạm độc đoán, đã bị từ bỏ mà không có sự kháng cự; bởi vì lũ trẻ tin rằng chúng đã tìm thấy những sự thật phong phú hơn những gì chúng mang trong tâm hồn. Kinh nghiệm tuổi thơ – lá bùa hộ mệnh này, thứ lẽ ra phải đồng hành cùng chúng ta suốt đời để cứu chúng ta khỏi những cạm bẫy của số phận – lại chết yểu. Lũ trẻ kiệt sức, hao mòn, già đi, bị tha hóa bởi những người bạn giả dối của chúng. Khi cuộc nổi loạn của chúng cạn kiệt, như mọi cuộc nổi loạn khác, chúng sở hữu được gì? Những mảnh vụn của ý thức hệ, những từ ngữ lặp đi lặp lại, những khẩu hiệu tang tóc và tàn úa, mà chúng vứt bỏ như những mảnh vụn trong một góc phòng. Dưới lớp vỏ này, sự tồn tại nội tâm của chúng không phát triển: tuổi thơ đã chết, mà không tan vào tuổi trưởng thành; và giờ đây chúng đứng đó một cách thụ động, không trẻ cũng không già, không phải trẻ con cũng không phải người lớn, với khuôn mặt nghiêm túc một cách vô ích, đầu cúi gằm, không có nhiệt huyết cũng không có khát vọng sống.
Dostoevsky từng nói rằng xúc phạm một đứa trẻ là tội lỗi nghiêm trọng nhất mà một người lớn có thể phạm phải. Chúng ta đối xử với lũ trẻ như những người mua đồ chơi và thời trang, như những thị trường cho tham vọng ý thức hệ của chúng ta; và chúng ta quên để lại xung quanh chúng vầng hào quang của sự quan tâm, sự tôn trọng, sự lơ đãng trìu mến, sự thiếu chú ý đầy yêu thương, những điều mà chúng cần nhất. Khi đến gần chúng, chúng ta nên đi nhón chân: chúng ta nên cẩn trọng với lời nói của mình, và làm cho chúng ngày càng nhẹ nhàng và trong suốt, để không một lời nào nghe như một lời mời gọi, một mệnh lệnh, một yêu cầu. Với tất cả sức mạnh của sự chú ý của mình, chúng ta nên khám phá ra những mong muốn ẩn giấu và những hy vọng vô thức mà chúng gửi gắm giấc mơ của mình. Nhưng gần như không ai sở hữu nghệ thuật này: nghệ thuật khó khăn nhất trong số các nghệ thuật, mà một con người phải biết.
Tuổi trưởng thành
Chúng ta tin rằng mình biết về tuổi trẻ và tuổi già: nhưng tuổi trưởng thành dài đằng đẵng mà cũng thoáng chốc, nơi chúng ta lẽ ra phải gửi gắm phần tốt đẹp nhất của mình – vẫn tiếp tục là điều khó hiểu đối với chúng ta. Tất cả các trường ca và tiểu thuyết vĩ đại đều kể về cách một con người bước qua ngưỡng cửa dẫn vào tuổi trưởng thành: đôi khi không cần nỗ lực và không suy nghĩ, đôi khi sau những do dự và những thử thách khủng khiếp. Có lẽ không có cuốn sách nào tiết lộ cho chúng ta bầu không khí, độ dày, khí hậu ngự trị trong thời gian này.
Ngôn ngữ hàng ngày quả quyết rằng tuổi trưởng thành là một đỉnh cao. Một cái gì đó mỏng manh được lấp đầy và trở nên hoàn hảo: nó tồn tại trong tình trạng này trong vài năm, trước khi suy tàn dần; như thể tuổi trưởng thành là một khoảng lặng giữa hai chuyển động, một sự dừng lại giữa một sự tăng trưởng và một sự suy tàn. Nó đến khi nào và như thế nào nó muốn, ở những độ tuổi khác nhau nhất, theo những cách bất ngờ nhất, đi kèm với hạnh phúc hoặc bất hạnh. Tamino và Pamina trưởng thành khi còn trẻ, sau khi đã vượt qua sức nóng của ngọn lửa và tiếng gầm của dòng nước: Don Quixote một khoảnh khắc trước khi chết, khi ông từ bỏ những ảo tưởng đã giúp ông sống: Ulysses khi trở về nhà, sau khi bị giam cầm trên một hòn đảo trong chín năm và đã chế ngự được bản năng trốn chạy của mình: Marcel ngay khi bắt đầu viết cuốn sách vĩ đại, thứ tạo ra xung quanh anh một hòn đảo bị bao bọc bởi đại dương không thể vượt qua nhất; Wilhelm Meister và Lucien de Rubempré sẽ không bao giờ vượt qua ngưỡng cửa… Trong mỗi trường hợp này, tuổi trưởng thành vừa là một sự chinh phục vừa là một sự từ bỏ. Sự mất đi một sự không chắc chắn, một ảo tưởng, một sự bồng bột, một cuộc lang thang, một sự nghi ngờ: trong khi cái nhìn học cách nhìn thấy, trí thông minh học cách nắm bắt cốt lõi của sự vật, trái tim học cách chịu đựng những điều có thể và không thể chịu đựng được.
Đôi khi sự chuyển tiếp đi kèm với một cảm giác thể chất. Chúng ta có cảm giác như đã va vào một chướng ngại vật. Sau đó, trong một thời gian, chúng ta không nghe thấy tiếng động nào khác bên trong mình: cho đến khi chúng ta không còn cảm thấy một cú va chạm, mà là một loạt những cú sốc nhỏ, liên tục, gần như không thể nhận thấy, như thể một con tàu đã va vào khi cập bến. Chướng ngại vật mỗi ngày một khép chặt hơn và cuối cùng bao vây chúng ta từ mọi phía, không để lại một lối thoát. Không ai cố gắng vượt qua nó, bởi vì chúng ta không có sức mạnh cũng không có mong muốn. Vậy chúng ta đã va vào cái gì? Chướng ngại vật nào đang giam giữ chúng ta? Trong nhiều năm, qua hàng ngàn lần điều chỉnh, sử dụng mọi loại vật liệu, bớt đi và thêm vào, làm việc như người thợ xây tận tâm nhất và tên cai ngục xảo quyệt nhất, cái tôi của chúng ta đã dựng nên những bức tường, những hàng rào phòng thủ, những luật lệ, những nguyên tắc, những đường biên giới của riêng nó. Một cái gì đó đã cứng lại mãi mãi; và bây giờ chúng ta phải sống bên trong những bức tường mà chúng ta đã xây dựng mà không hề hay biết.
Bị giam trong những giới hạn này, chúng ta chợt nhớ lại khi chúng ta sống trên những cánh đồng rộng mở của tuổi trẻ.
Khi đó, mỗi người đều cố gắng khám phá xem cái tôi của mình là gì: thử, rồi lại thử, chạy trốn, lao về phía trước, đi qua những con đường và những xứ sở sai lầm, dò hỏi khắp nơi, như người đang tìm kiếm một thứ gì đó bị mất hoặc bị lãng quên. Chúng ta phá hủy một cách có lý hoặc vô cớ, với một niềm vui cuồng nhiệt, – nhưng mỗi hành động phá hủy đều là một cách để xây dựng hình ảnh của chính mình. Chúng ta khoác lên mình những biểu tượng, hình ảnh, những mô hình hành vi, nhìn mình trong gương đầy vui sướng, tự hào vì được ẩn sau những chiếc mặt nạ lừng lẫy như vậy. Thế giới là một khu chợ, nơi mọi thứ đều được bán hoặc cho mượn.
Với một sức mạnh tạo hình luôn được làm mới, cái tôi của chúng ta đã chiếm đoạt những cuốn sách, những bức tranh, những con người, những xứ sở vừa thoáng thấy, những suy nghĩ và lời nói quá lớn lao, những sự vật đã qua và xa lạ, những sự vật gần gũi, khả dĩ và phi lý. Cứ thế, mỗi ngày chúng ta lại vẽ ra một lãnh địa khác. Chúng ta chiếm hữu nó bằng hy vọng và tình yêu: chúng ta sống ở đó một thời gian; rồi, bị sự nhàm chán tấn công, chúng ta lại di chuyển đến một lãnh địa xa xôi hơn, nơi mà chẳng bao lâu sau chúng ta sẽ lại di cư.
Giờ đây, sự tò mò của chúng ta vẫn chưa kết thúc. Trong những giờ đêm, khi hàng ngàn suy nghĩ cùng lúc tấn công và tâm trí lướt qua những cuộc đời mà chúng ta đã có thể sống hoặc vẽ nên với sự tỉ mỉ của chứng mất ngủ bức chân dung chi tiết về tương lai của chúng ta, – tất cả những điều chưa biết đều rộng mở trước khát vọng. Những ngôn ngữ xa lạ, những cuốn sách chưa đọc, những xứ sở cần đến thăm, những người mà chúng ta muốn trò chuyện, những tư tưởng mà chúng ta muốn đối mặt. Như những đứa trẻ, chúng ta chuẩn bị danh sách những công việc còn phải hoàn thành: những hành động anh hùng và những tội ác. Khi đó, chúng ta nghĩ rằng mình sẽ cần đến ba hoặc bốn cuộc đời – mỗi cuộc đời dài vô tận như của một vị tộc trưởng – để thực hiện những giấc mơ này. Nhưng, lần nào cũng vậy, lại là cùng một sự ngạc nhiên. Khi chúng ta thực hiện những cuộc đột kích dài hay ngắn ra khỏi những bức tường của mình, bằng cách đọc, đi du lịch, nói chuyện, chúng ta có cảm giác rằng tất cả những điều đó chỉ là một món quà và không thêm thắt được bao nhiêu vào kinh nghiệm sống. Mặc dù thật thú vị khi biết những điều khác biệt, chúng ta vẫn có thể sống thiếu chúng. Chúng không dạy cho chúng ta điều gì mới. Chúng không liên quan mật thiết đến chúng ta. Chúng không chạm đến chúng ta. Tất cả những gì chúng ta phải học, cái tôi của chúng ta đã học và đã đồng hóa khi nó chu du khắp thế giới, được bao bọc bởi một đám mây xám hay hồng của sự nhiễu nhương.
Trong tình trạng mới của mình, cái tôi ít hoặc không có chút tò mò nào đối với chính nó: nó chung sống với chính nó như người ta chung sống với một người khác; và việc nghiên cứu bản thân làm nó chán ngán sâu sắc. Cùng với thời gian, nó đã quên đi bản chất của mình. Tuy nhiên, nó chưa bao giờ biết rõ sức mạnh của mình đến thế. Như một lão nông, nó dùng ánh mắt khám phá những cánh đồng được canh tác hoặc hoang vu trải dài sau những bức tường: những ngọn đồi giả vờ vươn lên thành núi, những chỗ trũng nhẹ nhàng trông như vực thẳm, những cái cây tạo ra một sự đa dạng ảo ảnh, những thành phố của tư tưởng, những con hẻm của nỗi thống khổ, những bình minh và hoàng hôn mọc lên rồi lặn xuống trên đầu nó. Nó hiểu từng thứ một, mặc dù không còn nhớ tổng thể đã tạo ra chúng. Trong khi nhìn ngắm, tất cả những gì nó từng tin là hoàn toàn của mình và yêu quý vì là của mình, giờ đây dường như thuộc về một người xa lạ đã quen biết từ bao giờ.
Hoàn toàn thoát ra khỏi chính mình, xa lạ và cách biệt với chính mình, cái tôi trở nên khách quan một cách lạ thường đối với bản thân. Trí tuệ sáng suốt, chắc chắn và nhanh nhạy, như chưa từng có. Nó biết cách tận dụng mọi phẩm chất của con người: làm thế nào để khai thác trí thông minh và sự đần độn, sự bồng bột và sự thận trọng: làm thế nào để soi sáng những gì mờ đục mà không làm nó tan biến, làm thế nào để diễn tả những gì không chắc chắn mà vẫn để nó trong bóng tối mờ ảo; làm thế nào để sử dụng đến cùng cực những lực lượng đối lập, mà đôi khi chúng ta không biết mình mang trong người. Nó biết cách tổ chức, xây dựng, đối chiếu, đạt được hiệu quả tối đa với sự lãng phí tối thiểu. Khi chúng ta viết, nó tìm ra từ duy nhất đúng trong số rất nhiều từ chen chúc dưới ngòi bút: nếu chúng ta vẽ, nó nhanh chóng vạch ra những đường nét; nếu chúng ta hành động, hành động đó đạt được mục đích đã định mà không do dự. Cái tôi của chúng ta – thứ từng có vẻ chẳng để làm gì, một bông hoa vô dụng lộng lẫy hay đáng ghét – đã trở thành một xưởng thủ công, mỗi ngày sản xuất một lượng sản phẩm nhất định. Sự tự tin và chính xác của chúng ta đáng lẽ phải làm chúng ta vui mừng. Nhưng niềm vui không bao giờ sâu sắc. Cuộc sống không mục đích này, bởi vì những gì chúng ta mong muốn đã đạt được: việc thêm cử chỉ này vào cử chỉ khác mà không hỏi ý nghĩa của con đường: cuộc sống giữa những sự vật và tư tưởng hữu hạn: cảm giác không còn gì ở phía sau, có lẽ cũng không có gì ở phía trước; cảm giác liên tục về “đã nói rồi”, “đã làm rồi”, “đã nghĩ rồi”, “đã tưởng tượng rồi” khiến chúng ta nuối tiếc những ngày lang thang mơ hồ, không biết rằng một ngày nào đó chúng ta sẽ sở hữu những bức tường để ẩn náu.
Thế nên tuổi trưởng thành là lứa tuổi bất an nhất trong các lứa tuổi của con người. Tâm hồn thì bấp bênh, hoang mang, nghi hoặc: nó sợ hãi việc bày tỏ bất kỳ ý tưởng chung chung nào, bởi vì mỗi ý tưởng ấy sẽ mang lại cho nó một bộ mặt xác định; và đôi khi nó sợ hãi sự tồn tại, bởi vì mỗi ngày đều phải lựa chọn. Những gì chúng ta làm không mang lại cho nó niềm vui: những dự án, những công việc thực tế, những mưu mô, nơi chúng ta trút bỏ sự bất an của mình, lại gây cho nó sự ghê tởm tinh vi nhất. Nó muốn được gắn bó với một cái tôi khác: có thể là cái tôi của một người nào đó mà nó đã khinh miệt cho đến ngày hôm qua. Trong khi đó, mớ dây thần kinh, nơi tâm hồn đau khổ bị vướng vào, đã trở nên mong manh hơn. Khi ở những tầng cao của khí quyển xảy ra những sự dịch chuyển của không khí hay những trận chiến của gió, những trận chiến khác lại diễn ra trong chúng ta: nếu áp kế giảm, nếu một đoàn mây đen kịt hạ xuống bao vây chân trời từ mọi phía, một sự áp bức chết người đè nặng lên chúng ta. Khi đó, những bức tường của chúng ta dường như là một nhà tù, nơi chúng ta muốn trốn thoát.
Cơn phiền muộn
Trên gương mặt của bạn bè, người quen và những người chúng ta tình cờ gặp, ta ngày càng thường xuyên bắt gặp một vẻ phiền muộn và bất mãn, thứ phủ xuống như một chiếc mặt nạ chán chường làm nghẹt thở những đường nét từng một thời thanh tú. Những khuôn mặt cau có không để lộ những nỗi bất hạnh lớn lao và anh hùng, những nỗi tuyệt vọng tột cùng, những dấu vết của một số phận bị vùi dập và tan vỡ. Những đôi môi cay đắng không thốt lên lời phản kháng của người nghèo, tiếng gào giận dữ của kẻ bị áp bức bất công, lời than vãn và rên rỉ của người bị hy sinh. Vậy thì, tại sao tất cả mọi người dường như bất mãn đến thế? Tại sao lại có những gương mặt bất an này, những biểu cảm u ám này, những lời phản kháng triền miên này, những mối hận thù này, sự cáu kỉnh càu nhàu này, những đòi hỏi về một thứ gì đó bị từ chối một cách bất công?
Nhiều lời giải thích được gợi ý cho chúng ta mỗi ngày dường như không nắm bắt được bản chất của cơn phiền muộn hiện đại. Cơn phiền muộn của chúng ta không phụ thuộc vào các điều kiện của nền văn minh, vốn không vô nhân đạo và tàn khốc hơn những nền văn minh đã có trước nó. Và cũng không phải do sự thừa thãi của những ham muốn. Cơn phiền muộn hiện đại nảy sinh đúng hơn từ sự thiếu chính xác hoặc sự vắng mặt của ham muốn: đó là một sự thích thú u sầu, một trạng thái lười biếng rộng lớn, vô định và không xác định. Nó nảy sinh từ một loại khoảng trống trong tâm hồn, mà không gì có thể lấp đầy, càng không phải là hoạt động điên cuồng nhất: nó nảy sinh từ một cái gì đó đã chết mà người ta mang trong mình và cả đời cũng không thể chôn cất hoàn toàn. Chẳng có gì làm hài lòng, chẳng có gì thu hút, chẳng có gì thỏa mãn, chẳng có gì làm quan tâm. Những thứ gần và xa, phong cảnh, sách vở, tranh ảnh, bản thân chúng ta và người khác, tất cả những gì thực tại và trí tưởng tượng mang lại cho con người dường như đều nhuốm một màu xám đục và đồng nhất. Cái khoảng trống buồn tẻ này chỉ có thể tạo ra những đam mê mơ hồ và tàn lụi, hoang vắng và ì trệ, chỉ trở nên mãnh liệt để cố gắng tồn tại. Không có gì tàn nhẫn hơn lòng căm thù của kẻ không biết ghét, không có gì tham lam hơn lòng tham của kẻ không hưởng thụ tiền bạc, không có gì thô tục hơn sự tự yêu mình của kẻ không yêu bản thân.
Thế là cơn phiền muộn lan ra như một bệnh dịch. Vị chính khách lớn bất mãn, vận động viên nổi tiếng bất mãn, nhà văn có được thành công không xứng đáng cũng bất mãn, viên chức giữa những tấm thảm của mình bất mãn, bà nội trợ với những chiếc tủ lạnh của mình bất mãn, cậu bé đến trường cũng bất mãn; và, dần dần, những cơn phiền muộn này giao tiếp với nhau, ôm lấy nhau, nhân lên với nhau, và bao bọc trái đất như một đám mây dày đặc. Nhiệt độ tăng lên, căng thẳng gia tăng, những đòi hỏi và yêu sách lên cao giọng, các dây thần kinh kêu rít, những đam mê đòi hỏi một cách dữ dội. Như một con chim quái dị, nỗi bất hạnh giang rộng đôi cánh của nó trên đầu những con người không còn có thể nhìn thấy vẻ đẹp của thế gian, sống trong sự u ám và cáu kỉnh, và đã đánh mất sức mạnh giải phóng của tiếng cười.
Cuộc đời đã giao cho một vài người nhiệm vụ nhắc nhở chúng ta mỗi khoảnh khắc thế nào là đau khổ, buồn bã, lo âu, thống khổ, bất mãn, dang dở, thất bại. Họ là những người mang trong mình nỗi bất hạnh như một đặc ân và một ân huệ, và đôi khi chúng ta muốn xua đuổi họ khỏi cuộc đời mình vì họ nhắc nhở chúng ta về sự khốn khổ của những gì chúng ta làm. Ít có ai thân thương với chúng ta hơn họ. Ít có ai quý giá với chúng ta hơn người bạn từ xa bảo vệ chúng ta bằng lòng tốt e dè, bằng sự dịu dàng cất giữ trong đôi mắt sâu trũng, bằng sự vui vẻ căng thẳng của mình, và người luôn sống bên bờ vực của đêm tối, bên lề của bóng tối, nơi trái tim tạo ra với sự dư thừa khủng khiếp nhất sự lo âu, niềm vui hay nỗi đau. Nhưng nỗi bất hạnh này không có gì chung với sự bất mãn. Tất cả những gì nảy sinh từ cơn phiền muộn không phải là cao quý mà là tầm thường: không làm cho phong phú mà làm cho cằn cỗi: không nhắc nhở chúng ta về những giới hạn của cái tôi mà nhốt chúng ta vào trong đó; không mở mang tâm trí mà đóng nó lại.
Chúng ta có thể làm gì để chiến thắng sự bất mãn, thứ đang đầu độc những ngày của chúng ta? Nếu chúng ta đã lắng nghe một trong những nhà hiền triết bí ẩn đó, những người, trong những thời đại khác, đã giải tội cho con người, ông ấy sẽ cho chúng ta một lời khuyên kỳ lạ: “Hãy lùi lại. Đừng bao giờ tham gia hoàn toàn. Trong khi một phần cơ thể và tâm hồn của bạn hành động, hãy để một phần trong bạn sống sót mà không tham gia và không hành động, và chỉ hài lòng với việc quan sát. Hãy để lại trong tâm trí bạn một mũi nhọn, một viên kim cương, một viên ngọc trai, một con mắt bất động, chiêm ngưỡng những gì xảy ra. Hãy cứng rắn, lạnh lùng, vô cảm, dù có bị cho là sắc như dao, gian như rắn, mập mờ như con dơi hoàng hôn.”
Những người như những người mà nhà hiền triết già sẽ khuyên chúng ta luôn tạo ra ảo giác rằng họ đang đi sau người khác một bước. Họ sống giữa chúng ta như thể họ không có ở đó, với vẻ ngoài như đang sống ở một thành phố khác hay một đất nước khác, hoặc như thể họ sắp bắt đầu một chuyến đi rất dài sẽ đưa họ đến một nơi chúng ta không biết. Họ nghĩ gì, cảm thấy gì, tin vào điều gì vẫn là một bí ẩn đối với tất cả mọi người. Họ không thích những cái ôm, tránh những tính từ, ghét sự khoa trương, được dệt nên bởi sự mỉa mai như một con rối được làm bằng vải. Họ có thể bất mãn về điều gì? Nguyên nhân nào có thể khơi dậy cơn phiền muộn của họ? Ngay khi ánh mắt chính xác và khách quan của họ hạ xuống giữa chúng ta, những nỗi bất mãn, những mối hận thù, những giấc mơ tan vỡ, những ham muốn bị dập tắt sẽ tan biến như sương mù trong nắng.
Ai biết họ, đều biết rằng họ rất hay cười. Trong tâm trí họ ngự trị sức mạnh trí tuệ to lớn của tiếng cười, thứ biến những yêu sách và ảo tưởng hão huyền thành hư không, khám phá ra sự khôi hài tuyệt vời của cuộc sống, an ủi những tâm hồn đau khổ, mang lại sự cân bằng cho thế giới. Khi họ kể lại, cuộc đời họ là một trò hề không đáng quan tâm. Khi họ diễn giải nó, lịch sử của trái đất – sự sụp đổ hay trỗi dậy của các đế chế, vinh quang hay ô nhục của các vị vua, những cuộc đấu tranh và tranh chấp – là một màn trình diễn huyễn ảo: một cảnh đã xảy ra và sẽ lặp lại; một ảo ảnh khôi hài, trở lại vô định để tự tạo ra chính nó. Ai biết họ rõ hơn, đều biết rằng sự lạnh lùng của họ che giấu một sự nồng nhiệt không thể kìm nén. Dưới dấu hiệu của một sự tự chủ tước bỏ mọi ý thích tình cảm của họ, chỉ có những đam mê có sức mạnh của lửa và sự trong trẻo của nước mới tồn tại trong họ. Cuối cùng, mặc dù họ rất sẵn sàng chế giễu và nhạo báng, họ lại là một trong số ít người có khả năng yêu vẻ đẹp của thế giới: vẻ đẹp đó tiếp tục tỏa sáng ở những nơi chốn, trong sách vở, trong tranh ảnh, trong những trái tim trong sáng hay ô uế, miễn là chúng ta có can đảm để nhận ra nó.
Tôi không biết liệu con người có thực sự cần đến những Anh hùng, những Bậc thầy và những Đấng cứu thế hay không. Về phần mình, tôi chỉ mong rằng sẽ sớm có nhiều bóng ma đáng yêu này đến với chúng ta, những người mà tôi muốn giống và không giống. Có lẽ họ sẽ không bao giờ đến. Nhưng, nếu họ thực sự đến, không quan trọng là họ cải trang thành những tên cướp trong vở opera hay những nhà thám hiểm trong trang phục cổ, tất cả những người khác sẽ cảm thấy một cảm giác lạnh lẽo đột ngột hoặc một cơn rùng mình sau lưng. Bầu không khí sẽ dịu đi ngay lập tức, sự căng thẳng sẽ giãn ra, những đam mê sẽ lắng xuống, cơn phiền muộn sẽ ngừng che khuất và làm xấu đi những khuôn mặt. Trong vài giờ, tấm gương lớn bao bọc chúng ta mà chúng ta không biết và có lẽ đang gửi hình ảnh phản chiếu của chúng ta đến một thế giới khác, sẽ chỉ phản chiếu những khuôn mặt thanh thản, những cử chỉ hiền hòa và dịu dàng, những nụ cười vui vẻ như những nụ cười mà mỗi người muốn dành cho chính mình.