Chân dung Charles Dickens  – G.K. Chesterton

Chân dung Charles Dickens – G.K. Chesterton

Giới thiệu: BBT chúng tôi xin gửi đến loạt bài phê bình văn học của các nhà văn nước ngoài, lựa chọn những bài mẫu mực, cả về chân dung và bình luận tác phẩm. Không lý thuyết, không thuật ngữ, các kiệt tác phê bình văn học cho ta thấy không phải chỉ tinh tuyệt của tác phẩm, mà của cả người viết phê bình.

Trong bài viết này trích từ phần đầu cuốn sách “Dickens: A critical study” – một trong hai tác phẩm mà G.K. Chesterton (1874-1936), nhà văn, nhà phê bình lớn của văn học Anh viết về Charles Dickens. Đoạn viết này chưa bàn đến tác phẩm, nhưng phác thảo một chân dung Dickens với tài hoa của Chesterton.

Ghi chú khác: Do đoạn văn này nói về thời thơ ấu, một số đoạn sẽ được dịch là “cậu”, một số đoạn khác sẽ trở lại gọi Dickens là “ông” như thông thường

 

THỜI THƠ ẤU CỦA CHARLES DICKENS – G.K. Chesterton

Nguyễn Huế dịch từ tiếng Anh

Trong những cuộc chuyện trò thường nhật, hay trên bất kỳ tờ báo nào của chúng ta, ta có thể bắt gặp cái lối nói tuy lỏng lẻo nhưng quan trọng, “Tại sao ngày nay chúng ta không có vĩ nhân? Tại sao chúng ta không có những vĩ nhân như Thackeray, hay Carlyle, hay Dickens?” Đừng vội gạt đi cái lối nói này, chỉ vì nó có vẻ lỏng lẻo hay tùy tiện. “Vĩ đại” quả có nghĩa một cái gì đó, và phép thử cho tính xác thực của nó được tìm thấy bằng cách ghi nhận xem chúng ta đã bản năng và quyết đoán đến thế nào khi áp nó cho một số người này mà không phải những người khác, trên hết là chúng ta đã bản năng và quyết đoán đến thế nào khi áp nó cho bốn hoặc năm người trong kỷ nguyên Victoria, bốn hoặc năm người mà trong đó Dickens không phải là người nhỏ bé nhất. Thuật ngữ ấy được nhận thấy là vừa vặn với một sự vật xác định.

Dẫu hai chữ “vĩ đại” có nghĩa gì đi nữa, Dickens chính là cái nghĩa đó. Ngay cả những kẻ cầu kỳ và bất hạnh, những kẻ không thể đọc sách của ông mà không thấy bực bội phê phán liên miên, cũng sẽ dùng từ đó để nói về ông mà chẳng cần suy nghĩ. Họ cảm thấy Dickens là một nhà văn vĩ đại ngay cả khi ông không phải là một nhà văn giỏi. Ông được đối đãi như một nhà kinh điển, nghĩa là, như một vị vua giờ đây có thể bị ruồng bỏ, nhưng không thể bị phế truất. Khí quyển của từ này bám lấy ông, và điều kỳ lạ là chúng ta không thể làm cho nó bám lấy bất kỳ người nào trong thế hệ của chính chúng ta. “Vĩ đại” là tính từ đầu tiên mà nhà phê bình hiện đại kiêu kỳ nhất sẽ áp cho Dickens. Và “vĩ đại” là tính từ cuối cùng mà nhà phê bình hiện đại kiêu kỳ nhất sẽ áp cho chính mình. Chúng ta không dám tự nhận là vĩ nhân, ngay cả khi chúng ta tự nhận là vượt trội hơn họ.

Vậy thì, liệu có một ý nghĩa sống còn nào trong cái ý niệm về “sự vĩ đại” này hay trong những lời than vãn của chúng ta về sự vắng bóng của nó trong thời đại của chính mình? Một số người quả thực nói rằng, cái cảm giác về tầm vóc lớn lao này chẳng qua chỉ là một ảo ảnh của khoảng cách, và rằng người ta luôn nghĩ người chết thì vĩ đại còn người sống thì nhỏ bé. Họ dường như cho rằng quy luật phối cảnh trong thế giới tinh thần hoàn toàn đối lập với quy luật phối cảnh trong thế giới vật lý. Họ nghĩ rằng những hình bóng cứ lớn dần lên khi chúng bước đi xa. Nhưng lý thuyết này không thể nào khớp với các sự kiện. Chúng ta không thiếu vĩ nhân trong thời đại của mình vì chúng ta từ chối tìm kiếm họ trong thời đại của mình, trái lại, chúng ta tìm kiếm họ suốt cả ngày dài. Trên thực tế, chúng ta không phải là những ví dụ đơn thuần của những kẻ ném đá các nhà tiên tri và để cho hậu thế xây lăng mộ cho họ. Nếu thế giới chỉ cần sinh ra một nhà tiên tri hoàn hảo của chúng ta, trang nghiêm, sâu sắc, phổ quát, thì không gì có thể cho chúng ta niềm vui sướng tột độ hơn là được xây lăng mộ cho người. Trong cơn háo hức, chúng ta thậm chí có thể chôn sống người. Cũng không đúng khi nói rằng các vĩ nhân của kỷ nguyên Victoria đã không được gọi là vĩ đại trong thời của họ. Bởi nhiều người, họ đã được gọi là vĩ đại ngay từ đầu. Charlotte Brontë đã dùng ngôn ngữ anh hùng này để nói về Thackeray. Ruskin [John Ruskin một tư tưởng gia lớn thế kỷ XIX của ảnh hưởng đến Marcel Proust] đã dùng nó để nói về Carlyle. Một trường phái nhất định đã coi Dickens là một vĩ nhân ngay từ những ngày đầu ông nổi danh: Dickens chắc chắn thuộc về trường phái này.

 

[….]

CHARLES DICKENS sinh tại Landport, ở Portsea, vào ngày 7 tháng 2 năm 1812. Cha ông là một thư ký trong Văn phòng Lương bổng Hải quân, và đang tạm thời làm nhiệm vụ trong vùng lân cận. Rất nhanh sau khi Charles Dickens ra đời, tuy nhiên, gia đình đã chuyển đi một thời gian ngắn đến Phố Norfolk, Bloomsbury, và sau đó là một thời gian dài đến Chatham, nơi do đó đã trở thành ngôi nhà thực sự, và vì mọi mục đích nghiêm túc, là nơi sinh của Dickens. Toàn bộ câu chuyện cuộc đời ông di chuyển như một cuộc hành hương Canterbury dọc theo những con đường lớn của Kent.

John Dickens, cha ông, như đã nói, là một thư ký, nhưng những thuật ngữ thương mại đơn thuần như vậy cho chúng ta biết rất ít về giọng điệu hay địa vị của một gia đình. Cha của một ông tên Browning nào đó cũng sẽ được mô tả là một thư ký và một người thuộc tầng lớp trung lưu, nhưng gia đình Browning và gia đình Dickens mang màu sắc của hai nền văn minh khác nhau. Sự khác biệt không thể được truyền đạt chỉ bằng nói vơ vào là Browning đứng trên Dickens nhiều tầng lớp.

Cũng phải nói thêm rằng Browning thuộc về bộ phận của tầng lớp trung lưu có xu hướng (theo nghĩa xã hội nhỏ) đi lên, nhà Dickens thuộc về bộ phận có xu hướng theo cùng một nghĩa đi xuống.

Nếu Browning không phải là một nhà thơ, ông ấy sẽ là một thư ký giỏi hơn cha mình, và con trai ông có lẽ sẽ là một thư ký giỏi hơn và giàu có hơn ông. Nhưng nếu họ không được nâng lên không trung bởi cái tai nạn to lớn của một người thiên tài, nhà Dickens, tôi hình dung, sẽ xuất hiện ở những nơi ngày càng nghèo nàn hơn, làm thư ký kiểm kê, làm người trông coi, làm người viết địa chỉ phong bì, cho đến khi họ hòa tan vào quần chúng nghèo khổ.

Tuy nhiên, khi Dickens tuổi nhỏ, những yếu thế này trong vận mệnh trần tục của họ không hề lộ rõ, đặc biệt là nó không lộ rõ với chính cậu bé Charles. Cậu sinh ra và lớn lên trong cảnh dư dả. Cậu rơi vào gia đình, có thể nói như vậy, trong một trong những giai đoạn thoải mái của nó, và trong những ngày đầu đời đó, cậu chưa bao giờ nghĩ mình là gì khác ngoài một đứa trẻ trung lưu thoải mái, con trai của một người đàn ông trung lưu thoải mái. Người cha mà cậu thấy được sắp đặt cho mình, là một người mà từ đó sự thoải mái đã lôi ra những phẩm chất dễ chịu và trấn an nhất của ông, mặc dù có lẽ không phải là những phẩm chất thú vị và đặc biệt nhất của ông. John Dickens có vẻ, rất có thể, là một nhân vật nồng hậu và tử tế, lời nói hơi hoa mỹ, hơi cẩu thả trong nhiệm vụ ở một số chi tiết, đáng chú ý là trong chi tiết giáo dục. Sự bỏ bê của ông đối với việc rèn luyện tinh thần của con trai mình trong những thời điểm sau này và thử thách hơn là một hành động ích kỷ vô thức mà nó vẫn còn lại một chút cay đắng trong tâm trí con trai ông suốt đời. Nhưng ngay cả trong giai đoạn đầu và dễ dàng hơn này, những ghi chép còn lại về John Dickens đều toát lên không khí của một người cha có phần lười biếng và vô trách nhiệm. Ông đã thể hiện đối với con trai mình cái mâu thuẫn trong hành vi mà người cha quá vô tâm luôn thể hiện với đứa con quá chu đáo. Ông đã xoay xở để vừa bỏ bê tâm trí của nó, vừa kích thích nó quá mức.

Có rất nhiều câu chuyện và đặc điểm được ghi lại về thời thơ ấu của tác giả, nhưng một sự thật nhỏ dường như đối với tôi hơn bất kỳ sự thật nào khác đã tạo nên âm hưởng và chìa khóa cho toàn bộ tính cách kỳ lạ của ông. Cha ông thấy việc làm khán giả thú vị hơn là làm người hướng dẫn, và thay vì mang lại cho đứa trẻ niềm vui trí tuệ, ông đã kêu gọi nó, gần như trước khi nó ra khỏi tã lót, phải cung cấp niềm vui đó. Một số cái nhìn thoáng qua sớm nhất mà chúng ta có về Charles Dickens cho thấy cậu bé đang ngồi vắt vẻo trên một chiếc ghế hoặc bàn nào đó hát những bài hát hài hước trong một bầu không khí vỗ tay không ngớt. Vì vậy, gần như ngay khi cậu có thể lẫm chẫm bước đi, cậu đã bước vào ánh đèn sân khấu. Cậu không bao giờ bước ra khỏi nó cho đến khi qua đời. Cậu là một người tốt, như những người đàn ông trong thế giới hoang mang này của chúng ta, dũng cảm, trong sáng, nhân hậu, độc lập và danh dự một cách nghiêm túc, cậu không phải là một người đàn ông mà những điểm yếu của mình nên được nói đến mà không có thấy đáng nghi một cách tế nhị. Nhưng quả thực có pha trộn với những đức tính của cậu suốt đời cái phẩm chất sân khấu này, cái bầu không khí được phô diễn này-một loại tự ý thức vui nhộn.

Đời văn của ông là một cuộc diễu hành chiến thắng, ông chết trong cơn say vinh quang. Và đằng sau tất cả chín năm kỳ diệu đã lấp đầy thế giới, đằng sau những chuyến lưu diễn khổng lồ và mười nghìn ấn bản của ông, những bài giảng đông nghịt và tiếng kèn đồng vang dội, đằng sau tất cả những gì chúng ta thực sự thấy là khuôn mặt đỏ bừng của một cậu bé đang ca những bài hát trong phòng nhạc cho một vòng tròn các cô dì chú bác. Và niềm vui sớm nở này cũng giải thích nhiều điều, về mặt đạo đức. Dickens suốt đời có những lỗi lầm của một cậu bé bị bắt thức quá khuya.

Cậu bé trong trường hợp như vậy thể hiện một nghịch thường tâm lý, cậu hơi quá cáu kỉnh vì cậu hơi quá hạnh phúc. Dickens luôn hơi quá cáu kỉnh vì ông hơi quá hạnh phúc. Giống như đứa trẻ quá mệt mỏi trong xã hội, ông hòa đồng một cách lộng lẫy, nhưng lại đột nhiên hay gây gổ. Trong tất cả các mối quan hệ thực tế của cuộc đời mình, ông là những gì đứa trẻ trong những giờ cuối cùng của một dạ tiệc, thực sự vui mừng, thực sự thú vị, thực sự trìu mến và hạnh phúc, nhưng theo một cách kỳ lạ nào đó lại bị kích động đến sắp khóc.

Có một nét khác về cậu bé đã làm cho trường hợp của cậu trở nên đặc biệt hơn, và có lẽ trí thông minh của cậu trở nên nồng nhiệt hơn, đó là một sức khỏe kém.

Điều đó chỉ như một cú hích nhẹ, vì cậu không mắc phải căn bệnh đáng sợ nào và luôn có thể trong suốt cuộc đời chịu đựng một mức độ gắng sức lớn ngay cả khi đó chỉ là sự gắng sức của việc đi bộ dữ dội suốt đêm. Tuy nhiên, vệt bệnh tật đủ để đưa cậu ra khỏi cuộc sống vô thức chung của cộng đồng các cậu bé, và dù tốt hay xấu, sự rút lui đó luôn là một vấn đề quan trọng chết người đối với tâm trí. Cậu cứ liên tục bị đẩy lui vào những thú vui của trí tuệ, và những thứ này bắt đầu bùng cháy trong đầu cậu như một lò lửa bị dồn nén đớn đau. Bằng cái  sống động không đổi của riêng mình, cậu đã mô tả cách cậu bò lên một gác xép không được chú ý, và ở đó tìm thấy, trong một đống bụi bặm, nền văn chương bất tử của nước Anh.

Những cuốn sách Dickens nhắc đến chủ yếu là Humphrey Clinker Tom Jones. Khi ông mở hai cuốn sách đó trên gác xép, ông đã nắm bắt được quá khứ duy nhất mà ông có bất kỳ mối liên hệ nào, những nhà văn hài hước vĩ đại của nước Anh mà ông đã được định mệnh để trở thành người cuối cùng.

Phải nhớ rằng (như tôi đã gợi ý trước đây) có một cái gì đó về tỉnh lỵ mà ông sống, và những con đường lớn mà ông đi qua đã đồng cảm và kích thích niềm vui của ông đối với nền văn học phiêu lưu đã cũ này. Những nhóm người bộ hành dọc đường, đi qua thị trấn của ông và ra khỏi đó, thuộc loại du thủ du thực, đáng cười, những người đã ngã xuống mương hoặc phá cửa quán rượu dưới sự hộ tống của Smollett và Fielding [tên hai nhà văn Anh thế kỷ 18]. Trong thời đại của chúng ta, những con đường chính của Kent thường có một đoàn rước bất tận của những kẻ lang thang và thợ hàn thiếc không được biết đến trên những ngọn đồi yên tĩnh của Sussex, và có lẽ cũng đã như vậy trong thời thơ của Dickens. Quê của ông có những đài tưởng niệm về hài kịch Anh còn cổ hơn và còn vĩ đại hơn nữa. Từ đỉnh đồi Gad’s-hill mà ông không ngừng nhìn chăm chú, có một bóng ma quái dị của Falstaff [tức Sir John Falstaff – nhân vật hài hước của Shakespeare] nhìn xuống ông, Falstaff người rất có thể là cha tinh thần của tất cả những kẻ lừa đảo đáng yêu của Dickens, Falstaff ngọn núi vĩ đại của tiếng cười Anh và chủ nghĩa tình cảm Anh, kẻ lừa bịp vĩ đại, khỏe mạnh, nhân văn của Anh, không thể sánh được giữa các quốc gia.

Tại đỉnh này của đồi Gad’s-hill, Dickens thường nhìn chăm chú ngay cả khi còn là một cậu bé với mục đích vững chắc là một ngày nào đó sẽ biến nó thành của riêng mình. Điều đặc trưng cho sự nhất quán nằm dưới sự nghiệp có vẻ thất thường của Dickens là ông thực sự đã sống để biến nó thành của riêng mình. Sự thật là ông là một đứa trẻ sớm phát triển, sớm phát triển không chỉ về mặt thi vị hơn mà còn về mặt trần tục hơn của cuộc sống. Ông tham vọng cũng như nhiệt tình. Không ai có thể biết được những ảo ảnh nào đã chen chúc trong đầu của đứa trẻ thông minh khi nó chạy quanh các đường phố Chatham hoặc đứng nhìn chằm chằm vào đồi Gad’s-hill. Nhưng tôi nghĩ rằng những ảo ảnh khá trần tục đã chiếm một phần đáng kể trong vấn đề này.

Cậu khao khát được đến trường (một ước muốn kỳ lạ), được vào đại học, được tạo dựng tên tuổi, và cậu không chỉ khao khát những điều này, một số lượng lớn trong số đó cậu cũng mong đợi. Cậu tự coi mình là một đứa trẻ có địa vị tốt sắp bước vào một cuộc sống may mắn. Cậu nghĩ rằng ngôi nhà và gia đình của mình là một bàn đạp hoặc điểm xuất phát rất tốt để từ đó cậu có thể phóng mình đến những vị trí mà cậu mong muốn đạt được. Và gần như ngay khi cậu chuẩn bị nhảy, toàn bộ cấu trúc đã sụp đổ dưới chân cậu, và cậu cùng tất cả những gì thuộc về cậu đã biến mất vào một bóng tối sâu thẳm.

Mọi thứ đã bị đánh sập như thể bởi một tiếng sét cuối cùng. Người cha cao quý của cậu đã phá sản, và đang ở trong nhà tù Marshalsea. Mẹ cậu đang ở trong một ngôi nhà tồi tàn ở phía bắc London, điên cuồng tự xưng là hiệu trưởng của một trường nữ sinh, một trường nữ sinh mà không ai thèm đến. Và chính cậu, kẻ chinh phục thế giới và người mua tương lai của Gads-hill, đã trải qua một vài ngày hoang mang và bối rối khi phải cầm cố những vật dụng cần thiết trong gia đình cho những tay Fagin trong những cửa hàng bẩn thỉu, và rồi bằng cách nào đó lại thấy mình là một trong một hàng những cậu bé rách rưới trong một nhà máy lớn ảm đạm, dán những loại nhãn giống nhau lên những loại chai xi đánh giày giống nhau từ sáng đến tối.

Mặc dù đối với cậu, nó có vẻ đủ đột ngột, sự tan rã thực tế tất nhiên đã diễn ra trong một thời gian dài. Cậu chỉ nghe từ cha mình những lời ám chỉ đen tối và kịch tính về một “văn tự” mà, từ cách nó được đề cập, có thể là một yêu sách đối với ngai vàng hoặc một giao ước với ma quỷ, nhưng thực chất là một nỗ lực tài liệu không thành công của John Dickens để đi đến một thỏa thuận với các chủ nợ của mình. Và bây giờ, trong ánh sáng rực rỡ của hoàng hôn của mình, tính cách của John Dickens bắt đầu mang những màu sắc tím đó đã khiến ông dưới một cái tên khác trở nên lố bịch và bất tử. Phải cần một bi kịch để làm nổi bật sự hài hước của người đàn ông này.

Chừng nào John Dickens còn sống trong cảnh sung túc, ông chỉ có vẻ là một người dễ dãi, lời lẽ hơi dài dòng và hoa mỹ, công việc hơi cẩu thả. Ông chỉ có vẻ là một người hay nói, sống bằng cơm thịt như hàng xóm, nhưng khi cơm thịt lần lượt bị tước đi, người ta phát hiện ra rằng ông sống bằng lời nói. Đối với ông, bị cuốn vào một tai họa chỉ có nghĩa là được giao vai chính trong một bi kịch. Đối với ông, sự phá sản hoàn toàn chỉ là một chủ đề cho thơ không vần. Từ đó trở đi, chúng ta cảm thấy gần như không muốn gọi ông là John Dickens nữa, chúng ta cảm thấy muốn gọi ông bằng cái tên mà qua đó con trai ông đã tôn vinh chiến thắng phi lý và cao cả này của tinh thần con người trước hoàn cảnh.

Dickens, trong David Copperfield, đã gọi ông là Wilkins Micawber. Trong thư từ cá nhân của mình, ông gọi là Người Cha Hoang Đàng.

Cậu bé Charles Dickens đã bị vội vàng ném vào nhà máy bởi lòng tốt ít nhiều bất cẩn của James Lamert, một người họ hàng của mẹ cậu, đó là một nhà máy xi đánh giày, được cho là hoạt động như một đối thủ cạnh tranh với Warren’s bởi một Warren khác và “nguyên bản”, cả hai đều được điều hành thực tế bởi một người Lamert khác. Nó nằm gần Chợ Hungerford. Dickens làm việc ở đó một cách buồn tẻ, giống như một người bị choáng váng vì thất vọng. Đối với một đứa trẻ được trí tuệ hóa quá mức, và vào thời điểm này, tôi e rằng, quá tự cao tự đại, sự thô thiển của toàn bộ công việc rồi sự vụ, các căn phòng, các cậu bé, ngôn ngữ-là một loại ác mộng thú vật. Cậu không chỉ hầu như không nói về nó lúc đó, mà cậu còn hầu như không nói về nó sau này. Nhiều năm sau, khi đã ở đỉnh cao danh vọng, cậu nghe Forster [John Forster – người xuất bản tiểu sử của Dickens] nói rằng có một gã đàn ông nào đó biết cậu. Khi nghe tên, cậu có phần cộc lốc thừa nhận nó, và nói rằng đã gặp người đàn ông đó một lần. Forster, rất ngây thơ, đáp rằng người đàn ông đó nói rằng anh ta đã gặp Dickens nhiều lần trong một nhà máy ở gần Chợ Hungerford. Dickens đột nhiên im lặng lạ thường. Sau đó, cậu mời Forster, với tư cách là người bạn thân nhất của mình, đến một cuộc phỏng vấn đặc biệt, và, với mọi vẻ khó khăn và đau khổ, đã kể cho anh ta toàn bộ câu chuyện lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng. Một thời gian dài sau đó, cậu đã kể cho thế giới một phần của vấn đề trong câu chuyện về Murdstone và Grinby trong David Copperfield.

Ông không bao giờ nói về toàn bộ trải nghiệm ngoại trừ một hoặc hai lần, và ông không bao giờ nói về nó khác hơn là cách một người có thể nói về địa ngục.

Không cần phải cho rằng, tôi nghĩ, nỗi thống khổ này ở đứa trẻ đã bị phóng đại.

Sự thật là ông không phải không có cái thói xấu phóng đại, nếu đó là một thói xấu. Xung quanh ông có nhiều sự tự phụ và một cay độc nhất định trong cách ông diễn giải nhiều sự việc. Nhìn chung, quả thực, sẽ không quá lời khi nói rằng ông sẽ phóng đại bất kỳ nỗi buồn nào mà ông nói đến.

Nhưng đây là một nỗi buồn chiếm vị trí rất kỳ lạ trong cuộc đời của Dickens, đó là một nỗi buồn mà ông không nói đến. Về cái điểm đen đặc biệt này, ông đã giữ một sự im lặng chết người trong hai mươi năm. Một tai nạn đã tiết lộ một phần sự thật cho người bạn thân nhất của ông. Sau đó, ông đã kể toàn bộ sự thật cho người bạn thân nhất của mình. Ông không bao giờ kể cho ai khác. Tôi không nghĩ rằng điều này xuất phát từ bất kỳ cảm giác xấu hổ xã hội nào, nếu ông có một chút cảm giác đó vào thời điểm đó, ông là một người đàn ông quá tự mãn để có thể coi trọng nó trong cuộc sống sau này. Tôi thực sự nghĩ rằng nỗi đau của ông vào thời điểm này quá thực và xấu xí đến mức suy nghĩ về nó đã lấp đầy ông bằng cái loại xấu hổ phi cá nhân nhưng không thể chịu đựng được mà chúng ta cảm thấy, chẳng hạn, bởi ý niệm về sự tra tấn thể xác, về một cái gì đó làm nhục nhân loại.

Ông cảm thấy nỗi thống khổ như vậy là một cái gì đó tục tĩu.

Hơn nữa, có hai lý do chính đáng khác để nghĩ rằng cảm giác vô vọng của anh ta là rất chân thật. Trước hết, cái nhìn vô vọng này là phổ biến trong những tai ương của tuổi thơ. Sự cay đắng của những nỗi buồn thời thơ ấu không nằm ở chỗ chúng lớn lao, nó nằm ở chỗ chúng ta không biết rằng chúng nhỏ bé. Về bất kỳ thảm họa đầu đời nào, đều có một sự chung cuộc khủng khiếp, một đứa trẻ lạc có thể đau khổ như một linh hồn lạc lối.

Người ta thường nói rằng hy vọng đi cùng với tuổi trẻ, và cho tuổi trẻ đôi cánh của một con bướm, nhưng tôi tưởng tượng rằng hy vọng là món quà cuối cùng được trao cho con người, và là món quà duy nhất không được trao cho tuổi trẻ. Tuổi trẻ là giai đoạn ưu việt mà một người có thể trữ tình, cuồng tín, thơ mộng, nhưng tuổi trẻ là giai đoạn mà một người có thể vô vọng. Sự kết thúc của mỗi tập phim là sự kết thúc của thế giới. Nhưng sức mạnh của hy vọng qua mọi thứ, kiến thức rằng linh hồn tồn tại sau những cuộc phiêu lưu của nó, nguồn cảm hứng vĩ đại đó đến với tuổi trung niên, Chúa đã giữ lại thứ rượu ngon đó cho đến bây giờ. Chính từ lưng của những quý ông lớn tuổi mà đôi cánh của con bướm nên bung ra. Không có gì làm cho người trẻ bối rối nhiều như sự phù phiếm rất đều đặn nhất quán của người già.

Họ đã khám phá ra sự bất hoại của mình. Họ đang ở trong tuổi thơ thứ hai và trong sáng hơn của mình, và có một ý nghĩa trong sự vui vẻ của đôi mắt họ. Họ đã thấy sự kết thúc của Tận thế.

Đầu tiên, vậy thì, cái sự chung cuộc hoang vắng của tâm trạng trẻ thơ của Dickens làm tôi nghĩ rằng đó là một tâm trạng thực sự.

Và còn một điều nữa cần nhớ.

Dickens không phải là một đứa trẻ thánh thiện theo kiểu của Little Dorrit hay Little Nell. Cậu ta, ít nhất là vào thời điểm này, chưa đặt trọn trái tim mình vào những điều cao cả hơn, ngay cả những điều như sự dịu dàng hay lòng chung thuỷ. Cậu ta đã, và đang, trừ khi tôi nhầm lẫn rất nhiều, một cách chân thành, ngoan cố, cay đắng đầy tham vọng. Cậu ta, tôi tưởng tượng, đã có một ý tưởng khá rõ ràng  về những gì cậu ta muốn làm, muốn ghi dấu trên đời, trước khi tất cả hy vọng của gia đình mình sụp đổ.

Một vị thánh sau khi hối cải sẽ tha thứ cho mình vì một tội lỗi, một người đàn ông sành điệu sẽ không bao giờ tha thứ cho mình vì một sai lầm. Có những cách để được tha tội giết người, không có cách nào để được tha tội làm đổ súp. Cái phẩm chất mỏng này ở tất cả những người rất trần tục là một điều quá ít được nhớ đến, và nó không được hoàn toàn quên đi trong mối liên hệ với một cậu bé thông minh, không ngừng nghỉ, người đã mơ về một định mệnh. Phần đau khổ của cậu ta liên quan đến bản thân và địa vị xã hội của cậu ta là phần ít cao quý nhất trong số các phần khác của nó, nhưng có lẽ nó là phần đau đớn nhất.

Vì lòng kiêu hãnh không chỉ (như thế giới hiện đại không hiểu) là một tội lỗi đáng bị lên án, nó còn (như nó hiểu còn ít hơn) là một điểm yếu đáng được thương hại rất nhiều. Một nét chấm phá rất sinh động được đưa ra trong một trong những hồi ức của chính ông.

Khoảnh khắc không thể chịu đựng nhất của anh không đến từ bất kỳ sự bắt nạt nào trong nhà máy hay bất kỳ nạn đói nào trên đường phố.

Nó đến khi cậu đi xem chị gái Fanny của mình nhận giải thưởng tại Học viện Âm nhạc Hoàng gia. “Tôi không thể chịu đựng được khi nghĩ về bản thân mình-ngoài tầm với của tất cả những sự ganh đua và danh vọng như vậy. Nước mắt chảy dài trên khuôn mặt tôi. Tôi cảm thấy như thể trái tim mình bị xé nát. Tôi đã cầu nguyện khi đi ngủ đêm đó để được thoát khỏi sự sỉ nhục  và ra rìa mà tôi đang phải chịu. Chưa bao giờ tôi đau khổ dữ dội như vậy”

Không có sự ghen tị trong điều này.  Tôi không nghĩ là có, mặc dù đứa trẻ tội nghiệp khó có thể bị đổ lỗi nếu có. Chỉ có một cảm giác thất vọng điên cuồng, một tinh thần như một con thú hoang trong lồng. Đó chỉ là một vấn đề nhỏ theo nghĩa bên ngoài và rõ ràng, đó chỉ là Dickens bị ngăn cản trở thành Dickens.

CATEGORIES
Share This

COMMENTS

Wordpress (0)