Bàn về đặc điểm ấn tượng của phê bình văn học của Woolf

  Bàn về đặc điểm ấn tượng của phê bình văn học của Woolf- Hồ Nghệ San

 (Trường Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Định Lượng Trung Quốc, Hàng Châu, Chiết Giang)

H. Nguyen dịch từ tiếng Trung Quốc

Virginia Woolf là một tiểu thuyết gia theo trường phái dòng ý thức, đồng thời là một nhà phê bình văn học xuất sắc. Xuất thân và môi trường của giới quý tộc tri thức, cùng với tài năng thiên bẩm và sự “đồng hành của những tư tưởng hàng đầu”, đã tạo nên một Virginia Woolf vừa là một “độc giả phổ thông” vừa là một nhà phê bình vĩ đại. Khác với phê bình văn học thông thường, phê bình văn học của Woolf là phê bình ấn tượng. Hai tập “Độc giả phổ thông” [The common reader] thể hiện những đặc tính cảm tính, thi vị, giàu trí tưởng tượng và chất văn đẹp của các tiểu luận phê bình văn học của Woolf.

                                                                               Một

Với tư cách là một nữ văn sĩ nổi tiếng của thế kỷ 20, danh tiếng và vị thế của Virginia Woolf đã được nâng tầm “từ hàng ngũ kinh điển của văn học Anh hiện đại (Joyce, Lawrence, Eliot và Woolf) lên hàng ngũ kinh điển vĩnh cửu.” [1] (Trang 430) Bà là một tiểu thuyết gia theo trường phái dòng ý thức, là người tiên phong trong phê bình văn học nữ quyền phương Tây, và là tác giả của các tác phẩm như “Bà Dalloway”, Vết ố trên tường”(墙上的斑点 hay The Mark on the wall), và “Căn phòng riêng”(一间自己的屋子,  a room of one’s own). Tuy nhiên, một vai trò quan trọng của Woolf với tư cách là một nhà văn đã bị bỏ qua, đó là danh tính của bà như một “bậc thầy văn xuôi truyền thống”, “người cuối cùng trong số các bậc thầy văn xuôi vĩ đại của Anh” và một nhà phê bình văn học. Đương nhiên, hơn một triệu chữ văn xuôi và tiểu luận phê bình văn học của Woolf cũng bị bỏ qua.

Chúng ta đã nói rất nhiều về Virginia Woolf, về chủ nghĩa nữ quyền và về tiểu thuyết dòng ý thức của bà. Điều này là bởi Woolf trước hết được biết đến như một nhà nữ quyền và một tiểu thuyết gia dòng ý thức. Tác phẩm “Căn phòng riêng” của bà đã có những đóng góp tiên phong cho phê bình văn học nữ quyền phương Tây. Là tác phẩm đặt nền móng cho phê bình văn học nữ quyền, với ý thức giới tính mạnh mẽ và tự giác được ẩn chứa trong đó, đã khiến Woolf nổi tiếng ngang hàng với Simone de Beauvoir, có sức lôi cuốn và ảnh hưởng tương đương. Mặc dù Woolf có vẻ ít nổi loạn hơn, ít hung hăng hơn, ít mang tính lật đổ và thách thức hơn. Là một tiểu thuyết gia dòng ý thức, nhiều tác phẩm của Woolf được xem là kinh điển, có thể sánh ngang với các bậc thầy như Marcel Proust, James Joyce, Faulkner. Hơn nữa, tiểu thuyết dòng ý thức là trường phái có ảnh hưởng nghệ thuật lớn nhất trong văn học hiện đại thế kỷ 20. Ảnh hưởng của nó vẫn còn rộng rãi ngay cả sau khi dòng ý thức đã suy giảm. Do đó, việc các cuộc thảo luận về Virginia Woolf thường tập trung vào chủ nghĩa nữ quyền và tiểu thuyết dòng ý thức của bà dường như là điều không thể chê trách. Tuy nhiên, một cách vô thức, chúng ta đã bỏ qua những bài phê bình hoặc tiểu luận phê bình văn học đầy tài hoa và sâu sắc của Woolf.

Thực tế là, Virginia Woolf bắt đầu sự nghiệp văn chương của mình bằng việc viết các bài bình luận. Năm 1904, Woolf lần đầu tiên đăng bài bình luận sách trên tờ The Guardian, nhưng không ký tên thật nên có thể không tính. Bắt đầu từ năm 1905, Woolf được mời viết đánh giá sách cho “Thời báo văn học phụ san” (The Times Literary Supplement), và từ đó, việc viết tiểu luận luôn đồng hành cùng bà. Ngoài “Thời báo văn học phụ san”, Woolf còn viết bài cho các tờ báo và tạp chí quan trọng khác như The Yale Review, New York Herald Tribune, và The Atlantic Monthly. Song song với việc tiểu thuyết, “phê bình văn học và viết tiểu luận đã xuyên suốt toàn bộ cuộc đời sáng tác của Woolf, trở thành một phần quan trọng định hình danh tiếng văn học của bà.” [2] (Trang 228) Có thể nói, “Nếu Virginia Woolf chỉ được biết đến như một nhà phê bình văn xuôi, chứ không phải đồng thời là một tiểu thuyết gia thì bà vẫn sẽ là một trong những nhân vật vĩ đại nhất thời đại của mình. Hơn một triệu chữ văn phê bình không phải là số lượng quá ít đối với một người chuyên làm công việc phê bình.” [3] (Trang 288) Đối với Woolf, người cả đời chỉ làm hai việc là đọc và viết thì tiểu luận phê bình văn học chính là kết tinh hoàn hảo nhất của hai việc này.

                                                               Hai

Tuy nhiên, việc nói về các tiểu luận phê bình văn học của Woolf là một điều khó khăn. Ngay cả khi chúng ta nhận thức được Woolf là một nhà phê bình lớn, và nhận thức được tính cảm tính, tính thi vị và sự độc đáo trong các tiểu luận của bà. Điều này là bởi, thứ nhất, về mặt thể loại, các bài phê bình văn học của Woolf là tiểu luận hoặc tiểu luận phê bình, nên được xếp vào thể loại văn xuôi. Trong cách phân loại thể loại văn học thông thường gồm thơ, văn xuôi, tiểu thuyết, kịch, văn xuôi là thể loại khó thảo luận nhất. Thứ hai, về phương pháp phê bình, phê bình văn học của Woolf là phê bình ấn tượng, không có một hệ thống rõ ràng. Trong bối cảnh phê bình văn học ngày càng nghiêng về các “trường phái” và “chủ nghĩa” thì phê bình ấn tượng lại không bị ràng buộc bởi lý thuyết, không có bố cục hay phong cách cụ thể để tuân theo. Điều này khiến cho các nhà lý luận vốn giỏi lập luận phân tích cảm thấy thiếu đi chiều sâu và niềm thích thú. Thứ ba, đối mặt với hơn một triệu chữ tiểu luận phê bình của Woolf, đối mặt với các tác giả và tác phẩm được đề cập trong các tiểu luận phê bình đó, trong khi chúng ta không khỏi thốt lên cảm thán về kiến thức uyên bác và tầm nhìn rộng lớn của Woolf, chúng ta cũng khó tránh khỏi cảm giác “lan man” giống như khi đọc tiểu thuyết dòng ý thức của bà.

Vì vậy, sự im lặng hay vắng mặt của các cuộc thảo luận về tiểu luận phê bình văn học của Woolf là điều hiển nhiên.

Tuy nhiên, Leonard Woolf lại rất thẳng thắn khẳng định tài năng phê bình của Woolf. Năm 1953, khi xuất bản nhật ký của Woolf, Leonard đã viết: “Trong lời tựa này, tôi muốn chỉ ra một sự thật rằng, ngay cả nhiều người không hiểu, không thích, hoặc thậm chí chế giễu tiểu thuyết của Virginia, cũng phải thừa nhận tài năng phê bình phi thường mà cô ấy đã thể hiện trong cuốn “Độc giả phổ thông.” [4] (Trang 2-3). Dĩ nhiên, Leonard Woolf là chồng của Virginia Woolf, ông ngưỡng mộ phong thái tao nhã và trí tuệ siêu phàm của vợ mình. Nhưng đừng vì thế mà cho rằng đây là những lời lẽ ca tụng quá mức. Là một “trí thức xuất thân từ Cambridge”, Leonard có trình độ thẩm định hàng đầu, hoàn toàn có lý trí và có tầm nhìn để đánh giá các tác phẩm của Woolf một cách công tâm và thẳng thắn. Về tài năng phê bình của Woolf, Leonard đã khẳng định một cách dứt khoát, không chút mơ hồ.

Vậy thì, cái tài năng phê bình mà Leonard đã chỉ ra như một “sự thật” và khẳng định không chút mơ hồ đó là gì? Về điều này, E.M. Forster đã có một đánh giá rất đắt giá. E.M. Forster, thành viên của nhóm Bloomsbury thời đó, một nhà văn kiêm nhà phê bình cùng thời với Woolf, đã từng đánh giá cao Woolf trong một buổi diễn thuyết không lâu sau khi bà qua đời. Theo Forster, Woolf là kiểu nhà văn viết bằng “bốn phần tư” toàn bộ nhiệt huyết và tâm trí của mình: “Bà ấy thích viết, và viết với một niềm đam mê mãnh liệt, điều mà ít nhà văn nào có được hoặc mong muốn. Hầu hết các nhà văn khi viết, một phần tư tâm trí họ dành cho tiền bản quyền, một phần tư cho các nhà phê bình, một phần tư khác dành cho việc làm thế nào để cải thiện thế giới này, và chỉ còn lại một phần tư cuối cùng dành cho nhiệm vụ mà họ đã tập trung toàn bộ trí tưởng tượng của mình vào… Trong mọi thời đại, một nhà văn yêu thích việc viết như bà ấy thực sự rất hiếm.” [5] (Trang 5)

Giống như hầu hết các nhà phê bình khi nói về Woolf, Forster cũng đề cập đến con người Woolf, niềm đam mê sáng tạo, khí chất thi sĩ, cảm nhận và trí tuệ, chủ nghĩa nữ quyền, tiểu thuyết dòng ý thức… Nhưng duy nhất đối với các tiểu luận phê bình của Woolf, Forster lại nói qua loa tóm tắt. Tuy nhiên, dù sao thì bậc thầy vẫn là bậc thầy, dù không tốn nhiều bút mực nhưng lại có thể nói trúng trọng điểm. Và Forster đã nói trúng trọng điểm về tài năng phê bình của Woolf. Đó chính là: “Hai tập “Độc giả phổ thông” [The Common Reader] đã thể hiện kiến thức uyên bác và khả năng cảm thụ văn học sâu sắc của bà.” [5] (Trang 10)

Ở đây, Forster nói về tác phẩm “Độc giả phổ thông” của Woolf, và Leonard trong lời tựa khi xuất bản nhật ký của Woolf cũng nhắc đến “Độc giả phổ thông”. Ngoài “Độc giả phổ thông”, trong “Tổng tập tiểu luận của Virginia Woolf” (伍尔芙随笔全集, Collected essays of Woolf) còn có khoảng hơn một triệu chữ bài phê bình sách và tiểu luận khác. Tuy nhiên, trong suốt cuộc đời mình, Woolf chỉ tự tay biên soạn và xuất bản “Độc giả phổ thông” Tập I và “Độc giả phổ thông” Tập II. Các tiểu luận văn xuôi khác của bà được tập hợp và xuất bản sau khi bà qua đời. Có thể nói, “Độc giả phổ thông” là tác phẩm thể hiện rõ nhất phong cách tiểu luận và tài năng phê bình của Woolf. Hơn nữa, trong tất cả các tiểu luận của Woolf, tác phẩm có ảnh hưởng lớn nhất cũng chính là “Độc giả phổ thông”. Do đó, khi nói về Woolf, việc Leonard hay Forster dùng “Độc giả phổ thông” để đánh giá các tiểu luận phê bình của bà không thể nói là phiến diện.

                                                            Ba

Woolf đã đặt tên cho tập tiểu luận của mình là “Độc giả phổ thông”, trong lời tựa của tác phẩm, bà đã mượn lời của Tiến sĩ Johnson để thể hiện vai trò “Độc giả phổ thông” của mình: “Tôi rất vui khi có thể tạo được tiếng vang với độc giả phổ thông, bởi vì sau tất cả những điều cao siêu, tinh tế, giáo điều học thuật đó mọi vinh quang của thi sĩ cuối cùng đều phải do lẽ thường của những độc giả không bị định kiến văn học làm hỏng.”[6] (Trang 1) Lời bộc bạch thẳng thắn như vậy cho thấy sự phóng khoáng và tự tin của Woolf. Thực tế, cái gọi là “phổ thông” mà Woolf muốn nói đến là việc không bị bất kỳ thành kiến nào làm hỏng. Tuy nhiên, Woolf không phải là “Độc giả phổ thông” theo nghĩa thông thường, mà là một độc giả đã trải qua quá trình rèn luyện đọc sách nghiêm ngặt, một “Độc giả phổ thông” với tầm nhìn rộng mở, gu thẩm mỹ cao và cái nhìn phi thường. Điều này đương nhiên có mối liên hệ mật thiết với xuất thân, giáo dục, môi trường và tài năng cá nhân của Woolf.

Dù là một nhà văn hay một độc giả, xét về xuất thân và hoàn cảnh cá nhân, có thể nói Woolf được trời phú. Woolf xuất thân từ một gia đình quý tộc tri thức điển hình, dù là gia đình Stephen của cha bà, gia đình Thackeray của người vợ trước của cha bà, hay gia đình của mẹ Woolf, đều thuộc tầng lớp quý tộc tri thức sản sinh ra nhiều nhân tài. Đàn ông trong những gia đình này hầu hết đều có từng học tại trường Eton và Cambridge. Mặc dù cha của Woolf là Leslie Stephen, bị ràng buộc bởi thế tục, không cho con gái đi học như con trai. Nhưng Leslie Stephen có sự sáng suốt và lý trí của một học giả, hiểu được tầm quan trọng của giáo dục đối với con gái, và biết rõ sự thông minh của Virginia, đặt kỳ vọng rất cao vào con gái. Do đó, Virginia từ nhỏ đã được rèn luyện đọc sách một cách nghiêm ngặt và có hệ thống. Trong đó, vai trò của người cha là không thể thiếu. Có thể nói, “không có Leslie thì sẽ không có nhà văn Virginia Woolf.” [7] (Trang 33) Là một học giả được thấm nhuần tinh thần học thuật Cambridge, Leslie Stephen đã khơi dậy niềm yêu thích đọc sách và văn học của Virginia, bồi dưỡng gu thẩm mỹ cho con gái. Đương nhiên, Virginia thông minh như vậy đã không làm cha thất vọng. Niềm đam mê và tốc độ đọc của bà thường vượt quá sự mong đợi của cha. Những cái nhìn độc đáo và sắc bén của bà thường khiến Leslie Stephen nghiêm khắc và uyên bác phải kinh ngạc. Chỉ cần nhìn vào danh mục sách Virginia đọc năm 15 tuổi: Scott, George Eliot, Charlotte Brontë, Hawthorne…; “lễ hội đọc sách” của bà năm 20 tuổi, đọc Browning, Shelley, Austen, Ibsen, Bernard Shaw… Trong giai đoạn này, Virginia còn đọc nhiều tác phẩm xa lạ đối với “độc giả phổ thông”. Chính vì vậy, Woolf thực sự đã hoàn toàn “đồng hành cùng những tư tưởng hàng đầu”.

Cùng với tên tuổi của Woolf, không thể không nhắc đến Nhóm Bloomsbury. Khi nói về Woolf, thật khó để bỏ qua nhóm trí thức ưu tú nổi tiếng này. Forster, một thành viên của nhóm này, trong bài diễn thuyết không lâu sau khi Woolf qua đời, đã hóm hỉnh nhắc đến “màu sắc huyền thoại bao trùm người phụ nữ bệnh tật của Bloomsbury” Và màu sắc huyền thoại đó được tạo nên từ sự xuất sắc và độc đáo của Woolf cùng tất cả các thành viên trong nhóm. Ban đầu, nhóm này xoay quanh Virginia, chị gái Vanessa, và anh trai Thoby, sau đó đã tập hợp được một loạt các nhân vật lừng lẫy trong cả lịch sử văn học lẫn lịch sử mỹ học: tiểu thuyết gia, nhà phê bình Forster, nhà phê bình nghệ thuật nổi tiếng Roger Fry, chồng của Vanessa là Clive Bell… Ở đây, không cần nói đến những người khác, chỉ riêng Clive Bell và Roger Fry đã là hai nhân vật mang tính biểu tượng của chủ nghĩa mỹ học hình thức thế kỷ 20. Trong đó, mệnh đề “nghệ thuật là hình thức có ý nghĩa” mà Bell đưa ra, “đã trở thành một khẩu hiệu phổ biến trong mỹ học hiện đại phương Tây, và được công nhận là trụ cột của lý thuyết nghệ thuật hiện đại.” [8] (Trang 1) Roger Fry thì là “người tôn sùng và tuyên truyền nhiệt thành” cho hội họa Hậu Ấn tượng, là nhà lý luận và thủ lĩnh tinh thần của Nhóm Bloomsbury. Lý thuyết nghệ thuật của ông chắc chắn đã có ảnh hưởng tiềm tàng đến Woolf. Đương nhiên, trong nhóm này còn có chồng của Woolf, Leonard. Đây là một nhóm tinh hoa gồm những trí thức ưu tú có chỉ số IQ cực cao, gu thẩm mỹ cực cao đồng thời cũng rất tài năng. Trong đó, có niềm đam mê và sự ngưỡng mộ không chút mập mờ不无暧昧的激情和欣赏 của Bell dành cho Woolf, tình bạn và sự ngưỡng mộ của Woolf dành cho Fry, sự trung thành và che chở của Leonard dành cho Woolf. Có thể nói, chính sự va chạm tinh thần, sự khai sáng và sự trân trọng lẫn nhau giữa các thành viên của nhóm tinh hoa này đã, ở một mức độ nhất định, định hướng và ảnh hưởng đến gu thẩm mỹ của Woolf.

Cùng với xuất thân và môi trường quý tộc tri thức của mình, Virginia Woolf còn sở hữu “thiên phú của thần linh”. Không nghi ngờ gì nữa, Woolf là một thiên tài. Tài năng của bà thừa hưởng từ cả hai gia đình cha và mẹ, đi kèm với đó là yếu tố bệnh tâm thần của dòng họ Stephen. Thực tế, giữa thiên tài và sự điên rồ thường chỉ cách nhau một bước. Về điểm này, Maupassant cũng vậy, Van Gogh cũng vậy, và Woolf cũng vậy. Như 邓比 đã nói: “Bà ấy cực kỳ tài năng, gần như đến mức đáng sợ… Bà ấy là thiên tài, nhưng cũng kỳ lạ và điên rồ.” [1] (Trang 415-416) Yếu tố di truyền và “thiên phú của thần linh” này đã khiến Woolf có một khả năng cảm thụ văn học nhạy bén không ai sánh bằng. Đối với Woolf, khả năng cảm thụ nhạy bén đến tột cùng này là bẩm sinh, là thứ chỉ thuộc về riêng bà. Đây là một con dao hai lưỡi. Nó là ma chướng trong số phận của Woolf, nhưng cũng là phúc lành cho sự nghiệp viết lách của bà.

Xuất thân quý tộc tri thức, sự đồng hành của những tư tưởng hàng đầu, ảnh hưởng từ nhóm tinh hoa, cùng với “thiên phú của thần linh” bẩm sinh – tất cả những điều này đã tạo nên một Woolf độc đáo: một bậc thầy dòng ý thức khác biệt so với các tiểu thuyết gia truyền thống, một nhà phê bình văn xuôi khác biệt so với các nhà phê bình hàn lâm, một “độc giả phổ thông” đã vượt qua những giáo điều học thuật cao siêu, tinh tế, sở hữu cái nhìn phi thường và tài năng xuất chúng.

                                                               Bốn

Khi Virginia Woolf mượn lời của Tiến sĩ Johnson để thể hiện vị thế “độc giả phổ thông” của mình, thật trùng hợp, một nhà phê bình nổi tiếng khác là Bloom đã gọi Tiến sĩ Samuel Johnson là “độc giả lý tưởng”. Harold Bloom là một giáo sư văn học nổi tiếng đương đại của Mỹ, nhà phê bình thuộc “trường phái Yale”, nhà lý luận văn học, được mệnh danh là người khổng lồ và người dẫn đầu trong giới phê bình văn học. Tây Phương chính điển (西方正典, tên gốc The Western Canon) nổi tiếng của ông “không cần lý do để giới thiệu”, chỉ vì tác giả là Bloom. Chính Bloom, trong lời tựa cuốn “Đọc thế nào và tại sao phải đọc”(tên gốc: How to read and Why) của mình, đã gọi Tiến sĩ Johnson là “bậc thầy phê bình mà tôi noi theo”. Bloom còn đặc biệt nhắc đến Woolf và tác phẩm  “độc giả phổ thông” của bà, không kém phần hóm hỉnh khi gọi những lời khuyên về việc đọc sách của Woolf trong “我们该如何读书”(Chúng ta nên đọc sách như thế nào) là “lời cảnh báo hấp dẫn”. Hoàng Xán Nhiên, sau khi dịch xong “Đọc thế nào và tại sao phải đọc”(tên gốc: How to read and Why), đã viết trong lời tựa trước khi xuất bản rằng Bloom là “nhà phê bình kiểu đại văn hào”大作家式的批评家. Bởi vì “Harold Bloom không phải là nhà phê bình theo nghĩa thông thường, nhưng ông lại có đủ tư cách của một nhà phê bình theo nghĩa thông thường. Ông là một nhà phê bình chuyên nghiệp, nhưng ông hầu như không bao giờ thêm hay khoe khoang học thức trong sách… Thực tế, những độc giả có tầm nhìn đều có thể thấy rằng ông mới là một độc giả có trình độ vĩ đại.” [9] (Trang 1) Ở đây, không có ý định đi sâu vào Bloom. Tuy nhiên, nếu nói Bloom là “nhà phê bình kiểu đại văn hào”大作家式的批评家” thì Woolf chính là một đại văn hào (không phải kiểu) và một nhà phê bình lớn.

Khi nói đến phê bình văn học của Woolf, không thể bỏ qua thân phận kép giữa tiểu thuyết gia và nhà phê bình của bà. Khác với các nhà phê bình chuyên nghiệp, Woolf là một nhà văn, và đặc biệt là một tiểu thuyết gia dòng ý thức. Đồng thời, tận sâu bên trong, Woolf còn là một nhà thơ. Như Foster đã nói: “Bà ấy thuộc về thế giới của thơ ca, nhưng lại mê đắm một thế giới khác… Bà ấy là một nhà thơ, nhưng lại muốn viết một cái gì đó gần nhất với tiểu thuyết.” [5] (Trang 13) Đương nhiên, trong gen di truyền của Woolf còn có yếu tố bệnh tâm thần, khiến độ nhạy cảm nội tâm của bà cực kỳ cao. Vì vậy, việc đọc, thưởng thức, viết lách và phê bình của Woolf không thể là sự suy tư lý tính của một nhà phê bình chuyên nghiệp hay một học giả hàn lâm, mà là cách tư duy của một nhà văn, thậm chí là một nhà thơ. Thân phận, góc nhìn và thiên phú của một nhà văn kiêm nhà thơ và nhà phê bình đã khiến phê bình văn học của bà trở thành một chu trình tuần hoàn đọc – suy ngẫm – viết – phê bình, chuyển đổi từ lập trường nhận thức bên ngoài sang lập trường cảm nhận nội tại, thậm chí là đồng cảm sâu sắc. Do đó, các tiểu luận phê bình văn học của bà không phải là khái niệm, không phải là chủ nghĩa, không có những lời sáo rỗng. Bài viết của bà giàu cảm xúc, sống động, tràn đầy trí tưởng tượng và sự sáng tạo.

Song hành với vai trò tiểu thuyết gia dòng ý thức, Woolf khi đọc và viết, luôn hướng tới tâm hồn. Trong tiểu luận “Góc nhìn của người Nga”《俄国人的角度》, Woolf viết: “Văn học Nga khiến chúng ta cảm nhận được sự giản dị và nhân tính, như thể trong nỗi kinh hoàng đã trút bỏ mọi che đậy và ngụy trang… “Nhưng đừng dùng lý trí để đồng cảm – vì dùng lý trí thì dễ, hãy dùng tâm hồn để đồng cảm, với tình yêu dành cho họ.”” [6] (Trang 149) Việc dùng tâm hồn, chứ không phải đầu óc, nói lên cách Woolf hiểu tiểu thuyết Nga, và thực tế cũng có thể hiểu như vậy về cách đọc, viết và phê bình của Woolf. Đúng vậy, Woolf đã đọc, viết và phê bình như thế. Về điểm này, đại văn hào kiêm nhà phê bình lớn Woolf, lại trùng hợp với cách làm của nhà phê bình kiểu đại văn hào Bloom. Bloom có diễn giải về việc đọc như sau: “Chúng ta đọc, thường là để tìm kiếm một tâm hồn nguyên bản hơn tâm hồn của chính mình, mặc dù chúng ta có thể không tự biết.” [9] (Trang 10) Có thể thấy, về phương diện kiển giải sâu sắc và độc đáo, những bậc thầy luôn có sự nhất quán đáng kinh ngạc như vậy. Có thể nói, việc đọc của Woolf là việc đọc bằng tâm hồn, là đọc theo “ánh sáng nội tâm” mà Emerson coi là nguyên tắc đọc, và cách viết của bà cũng là viết từ tâm hồn. Điều này thể hiện trong phê bình của bà, dù khác với tiểu thuyết, nhưng về định hướng viết, nó là sự mở lòng hoàn toàn với cảm giác và cảm xúc. Dùng tâm hồn, chứ không phải lý trí, đọc – suy ngẫm – nhận xét, đánh thức hoàn toàn cảm giác của bản thân và độc giả. Do đó, những phê bình như vậy có thể đi thẳng đến linh hồn của tác phẩm.

Với tư cách là một nhà phê bình, Woolf là một nhà văn; với tư cách là một nhà văn, Woolf lại là một nhà thơ có tâm hồn cực kỳ nhạy cảm với thế giới, với bản thân và với văn học. Như Foster đã nói, Woolf là một nhà thơ, nhưng lại muốn viết những tác phẩm gần giống tiểu thuyết. Nếu tiếp tục ý của Foster, thì đó là: Woolf là một nhà văn, nhưng lại viết một lượng lớn các bài phê bình văn học. Tố chất nhà văn và khí chất thi sĩ đã khiến những bài phê bình của Woolf là phê bình ấn tượng, và chỉ có thể là phê bình ấn tượng. Như Foster đã hình dung, Woolf sẽ không hài lòng với việc ai đó mặc “áo choàng mũ vuông”方帽长袍” để đánh giá tác phẩm của mình. Thực tế, những bài viết phê bình của Woolf cũng không được viết ra khi bà mặc “áo choàng mũ vuông”方帽长袍”. Woolf không có ý định trở thành một nhà phê bình học giả, không quan tâm đến “áo choàng mũ vuông”方帽长袍”  của giới hàn lâm. Phê bình của Woolf chú trọng cảm giác, chú trọng trải nghiệm, đây là điều mang tính bản sắc và văn học nhất. Về điểm này, Woolf, một nhà văn tiên phong của thế kỷ 20, có sự tương đồng nội tại trong cách tư duy với phê bình văn học cổ đại Trung Quốc chú trọng trải nghiệm, cảm giác, ấn tượng trực giác và phê bình văn học ấn tượng cận hiện đại phương Tây chú trọng cảm nhận trực giác và trải nghiệm cảm xúc. Đúng như Forster đã nói: “Bà ấy đã nhắc nhở chúng ta về tầm quan trọng của cảm giác.” [5] (Trang 15)

                                                          Năm

Trong hai tập “Độc giả phổ thông”, một lượng lớn các bài viết là tiểu luận về các nhà văn Anh. Khác với cách phân tích tỉ mỉ, chi tiết về tác giả và tác phẩm trong lịch sử văn học truyền thống và các bài lý luận thông thường, phê bình của Woolf là một cách đọc bằng tâm hồn, bằng những câu chữ thơ mộng đầy trí tưởng tượng, và bằng những nét “chấm phá”để “vẽ chân dung” các nhà văn. Mỗi nhà văn dưới ngòi bút của bà đều tràn đầy linh hồn và sức sống, từng câu chữ toát lên sự thấu hiểu đầy chất thơ của Woolf đối với tác giả và tác phẩm.

Trong số các bài phê bình của Woolf về các nhà văn Anh, Austen là một trong những tác giả được nhắc đến nhiều nhất. Dưới ngòi bút của Woolf, Jane Austen, người đã viết nên “Kiêu hãnh và định kiến”, không nghi ngờ gì là “một bậc thầy lớn”, và “Kiêu hãnh và định kiến là một kiệt tác”. Mặc dù bản thân Woolf “thà không ở một mình với bà ấy trong cùng một căn phòng”, nhưng Austen “vẫn tồn tại sống động”, “được tôn vinh”, “và rực rỡ tỏa sáng ở đó”. Điều này được thể hiện trong các tác phẩm như “Căn phòng riêng”, “Chúng ta nên đọc sách như thế nào”, và “Jane Austen”. Đương nhiên, điều quan trọng nhất là hơn ai hết Woolf đã nhận ra rằng: trong số tất cả các nhà văn vĩ đại, điểm vĩ đại của Austen là “khó nắm bắt nhất”. Nhưng Woolf đã nắm bắt được. Theo Woolf, “tất cả các yếu tố nghệ thuật vĩ đại” của Austen nằm ở việc “nhận ra sự sâu sắc của những việc vặt vãnh hàng ngày”, “trao cho những cảnh đời tưởng chừng tầm thường hình thức sống động bền bỉ nhất”, do đó, tác phẩm của bà đã có được “tính văn học vĩnh cửu”.

Kể từ khi “Kiêu hãnh và định kiến” ra đời, Jane Austen đã được nhiều thế hệ độc giả đọc và yêu mến. Hơn một trăm năm qua, nước Anh “đã trải qua vài cuộc cách mạng thú vị. Sự đổi mới trong khẩu vị văn học đã ảnh hưởng đến danh tiếng của gần như tất cả các nhà văn, chỉ riêng Shakespeare và Jane Austen là trường tồn.” [10] (Trang 1) Ở đây, Edmund Wilson đã đặt Austen ngang hàng với Shakespeare, mặc dù địa vị văn học của Austen không cao như Shakespeare, nhưng “sau gần hai trăm năm được độc giả thưởng thức và các nhà phê bình đánh giá”, Austen “đã trở thành một nhà văn kinh điển được công nhận,” [10] (Trang 1) giành được tình yêu của độc giả và lời khen ngợi của các nhà phê bình.

Walter Scott là nhà văn gần như cùng thời với Austen, ông từng thống trị văn đàn gần 20 năm với các tiểu thuyết lịch sử của mình. Mặc dù Austen có phần không mấy coi trọng Scott, nhưng Scott lại rất ngưỡng mộ Austen. Scott cho rằng tiểu thuyết của Austen “là nghệ thuật mô tả chân thực cuộc sống của tầng lớp bình dân, nó không mang đến cho độc giả những bức tranh về một thế giới tưởng tượng rực rỡ, mà là sự miêu tả chính xác và đáng chú ý về những điều thường nhật xảy ra xung quanh bà.” [10] (Trang 17) Scott thậm chí còn thừa nhận rằng bản thân ông không thể mô tả những chuyện nhỏ nhặt của người bình thường một cách thú vị như Austen.

Là một “nhà đọc sách” và nhà thẩm định, Maugham cũng có những cái nhìn sâu sắc và khả năng phán đoán không có gì nghi ngờ. Maugham đã ca ngợi khả năng miêu tả những việc vặt vãnh hàng ngày xuất sắc của Austen: “Khả năng quan sát tinh tường và óc hài hước sống động khiến bà không bao giờ sa đà vào ảo tưởng; điều bà quan tâm không phải là những sự kiện bất thường, mà là cuộc sống hàng ngày bình thường. Chỉ cần dựa vào khả năng quan sát nhạy bén, óc hài hước sống động và cách dùng từ khéo léo, bà đã biến cuộc sống bình thường nhất trở nên phi thường rồi.” [11] (Trang 109)

Bậc thầy vẫn là bậc thầy. Dù nhìn vấn đề từ góc độ khác nhau, cách diễn đạt khác nhau, nhưng lại có sự tương đồng kỳ lạ về sự thấu đáo và cái nhìn sâu sắc. Dù là Scott hay Maugham đều tinh tế nhận ra khả năng của Austen trong việc thể hiện cuộc sống qua những việc nhỏ nhặt, cũng như phong cách hài hước và tính hài kịch của bà. Đương nhiên, Woolf cũng cảm nhận được điều đó. Điều khác biệt là, trong các tiểu luận của Woolf, điều đó được thể hiện một cách cảm tính hơn, sống động hơn, và thú vị hơn. Bài viết “Jane Austen” của Woolf tràn đầy hứng thú, cách hành văn tài tình, cách viết tao nhã, giàu kiến giải và trí tưởng tượng. Là một nhà văn, Woolf đã nhìn thấy sự trưởng thành dần về mặt nghệ thuật của Austen ngay trong những tiểu thuyết đầu tay của bà, “cô gái chững chạc đó đã trưởng thành rồi”, trở thành một nghệ sĩ vĩ đại:

 …Chúng ta sẽ không đoán được Jane Austen đã phải ép buộc ngòi bút của mình viết những bản thảo ban đầu khó khăn đến mức nào. Ở đây chúng ta thấy bà ấy rốt cuộc không phải là một ảo thuật gia. Giống như những nhà văn khác, bà ấy phải tạo dựng một bầu không khí để tài năng đặc biệt của mình có thể đơm hoa kết trái. Ở đây bà ấy đang dò dẫm, ở đây bà ấy vẫn đang bắt chúng ta chờ đợi. Đột nhiên, bà ấy làm được… Tài năng của bà ấy bắt đầu được giải phóng. Chúng ta lập tức thấy phấn khích; chúng ta bị chi phối bởi cảm xúc mạnh mẽ mà chỉ có bà ấy mới có thể truyền tải. Nhưng nó được tạo thành từ đâu? Một buổi khiêu vũ ở một thị trấn nhỏ; vài cặp đôi gặp gỡ và bắt tay trong phòng khách; ăn uống, uống trà; còn về kết cục, một chàng trai bị một cô gái trẻ lạnh nhạt, được một cô gái khác đối xử dịu dàng. Không có bi kịch cũng không có hành động anh hùng. Nhưng không hiểu sao khung cảnh nhỏ bé này lại có một sức hấp dẫn lay động lòng người không tương xứng với vẻ bề ngoài buồn tẻ của nó. [6] (Trang 116-117)

Đó chính là quá trình trưởng thành của Austen, đó chính là điểm vĩ đại của Austen, những cảnh tượng nhỏ bé, bề ngoài tẻ nhạt lại bùng nổ sức quyến rũ lay động lòng người. Đây cũng là điều mà Woolf gọi là sự sâu sắc của Austen, “tính văn học vĩnh cửu” và “kiểu sự sống bền bỉ nhất”. Đương nhiên, cũng như nhiều người, Woolf đã thấu hiểu sự hài hước và châm biếm của Austen:

   Bà ấy là nhà văn châm biếm kiên định nhất trong toàn bộ lịch sử văn học… Bà ấy lần lượt tạo ra những kẻ ngốc nghếch, những bậc thầy đạo đức, những dân thường, ông Collins…bà Bennet. Bà dùng những câu văn như roi quất quanh họ, đánh đòn họ, gọt giũa nên những hình dáng vĩnh cửu của họ. Nhưng họ vẫn ở đó, không biện hộ, không thương xót… Đôi khi người ta có cảm giác rằng các nhân vật của bà được sinh ra chỉ để Jane Austen tận hưởng niềm vui lớn khi chặt đầu họ. [6] (Trang 118-119)

Cùng là sự hài hước, cùng là sự châm biếm, nhưng qua ngòi bút mô tả đầy sống động, thú vị của Woolf, “chiều sâu, vẻ đẹp và sự phức tạp” trong tiểu thuyết của Austen được thể hiện một cách sâu sắc và đầy thú vị.

Nhắc đến các nữ văn sĩ Anh, chắc chắn phải kể đến chị em nhà Brontë cùng các tác phẩm “Jane Eyre” và “Đồi gió hú”. Theo Woolf, cả Charlotte Brontë và Emily Brontë đều là những thiên tài, và là những thiên tài đầy chất thơ. Dưới ngòi bút của Woolf, chỉ riêng thái độ của chị em nhà Brontë đối với thiên nhiên, cách họ miêu tả thiên nhiên, cùng với ánh sáng thiên tài tỏa ra từ những miêu tả ấy, đã soi sáng tác phẩm và từ đó soi sáng độc giả.

   Emily và Charlotte đều thường xuyên tìm đến thiên nhiên. Cả hai đều cảm thấy cần một biểu tượng nào đó mạnh mẽ hơn ngôn ngữ hoặc hành động, để bộc lộ những đam mê khổng lồ đang ngủ say trong bản chất con người… Họ nắm bắt được những gì gần gũi nhất với họ hoặc cảm xúc của nhân vật từ thế giới tự nhiên, vì vậy những cơn bão, những vùng hoang dã, những nơi đáng yêu vào mùa hè dưới ngòi bút của họ không phải là vật trang trí để tô điểm cho bài viết tẻ nhạt hay thể hiện khả năng quan sát của tác giả – mà chúng mang theo cảm xúc và ý nghĩa soi sáng toàn bộ cuốn sách.” [6] (Trang 135)

Dù vậy, Charlotte và Emily Brontë lại không hoàn toàn giống nhau. Khi đọc “Jane Eyre”:

 Tác giả nắm lấy tay chúng ta, kéo chúng ta đi theo con đường của bà, cho chúng ta thấy những gì bà thấy, không rời xa một phút nào, hay cho phép chúng ta quên bà. Cuối cùng, chúng ta chìm sâu vào tài năng, niềm đam mê và sự tức giận của Charlotte Brontë… [6] (Trang 133)

Đây là cảm giác mà cuốn tiểu thuyết mang tính tự truyện “Jane Eyre” mang lại cho Woolf.

Còn Emily Brontë và “Đồi gió hú” lại mang đến cảm giác khác biệt. Theo Woolf:

“Đồi gió hú” khó hiểu hơn “Jane Eyre” một chút, vì Emily có chất thi sĩ hơn Charlotte. Khi viết, Charlotte mạnh mẽ dứt khoát và đầy nhiệt huyết nói ra “Tôi yêu”, “Tôi hận”, “Tôi đau khổ”. Trải nghiệm của bà dù mãnh liệt hơn, nhưng vẫn giống với chúng ta. Nhưng trong “Đồi gió hú” không có “tôi”, không có gia sư, không có chủ nhân, có tình yêu, nhưng không phải tình yêu nam nữ… Bà ấy dường như có thể xé toạc tất cả những gì chúng ta dùng để hiểu con người, rồi đổ vào những vật thể trong suốt không thể nhận dạng đó một sức sống mãnh liệt đến mức vượt qua thực tại. Do đó, tài năng của bà là một khả năng hiếm có nhất. Bà ấy có thể giải phóng sự sống khỏi sự phụ thuộc vào sự thật; chỉ vài nét bút đã vẽ nên linh hồn một khuôn mặt, mà không cần có cơ thể; chỉ cần nói đến vùng hoang dã là có thể khiến gió gào thét, sấm chớp đùng đùng. [6] (Trang 136-137)

Thật là một cách diễn đạt đầy chất thơ, mang theo sự thấu hiểu đầy chất thơ của Woolf về chị em nhà Brontë, mang theo trải nghiệm, cảm nhận, cảm xúc và trí tưởng tượng chỉ thuộc về nhà văn. Đó chính là chị em nhà Brontë dưới ngòi bút của Woolf, hơn nữa Charlotte là Charlotte, Emily là Emily. Khi đọc những dòng văn của Woolf, tâm trí chúng ta theo dòng suy nghĩ của bà, như thể lại trở về thế kỷ 19, hơn một trăm năm trước. Ở Yorkshire, trong giáo xứ hẻo lánh đó, Charlotte và Emily, hai người phụ nữ tài năng, vẫn ở lại đó – “trên những vùng hoang dã đó, buồn bã và cô độc,” trải nghiệm “sự nghèo khó và hạnh phúc,” nhưng với tình yêu, niềm đam mê, hoang dã và sức sống mãnh liệt.

Trong số các nhà văn Anh, Virginia Woolf đã dành sự tôn kính và tình yêu không chút giữ lại cho Hardy. Trong lời mở đầu của “Tiểu thuyết của Thomas Hardy”, Woolf đã viết như sau: “Cái chết của Hardy đã khiến tiểu thuyết Anh mất đi một thủ lĩnh, chúng ta nói vậy có nghĩa là, chỉ duy nhất ông mới có được địa vị cao được thế giới công nhận, chỉ duy nhất ông mới xứng đáng nhận được sự tôn kính từ đáy lòng.” [12] (Trang 232) Theo Woolf, Hardy là “tiểu thuyết gia duy nhất đã làm cho nghệ thuật tiểu thuyết trở thành một ngành nghề đáng kính khi ông còn sống.”。 [12] (Trang 232) Dưới ngòi bút của Woolf, Hardy hiện lên là một “thiên tài thi ca” với “tâm hồn dịu dàng và nhân từ”. Khi Woolf đối mặt với những tiểu thuyết Wessex của Hardy, đối mặt với những thung lũng, làng mạc, những cánh đồng xanh tươi và rộng lớn ở miền nam nước Anh trong tiểu thuyết của ông, cùng với “những túp lều của người chăn cừu và những ngôi mộ của người đã khuất” rải rác trên cánh đồng, đối mặt với những người đàn ông và phụ nữ dưới ngòi bút của Hardy… thì việc bà chìm đắm, mê mẩn, say mê rồi cảm động là điều không thể tự nhiên hơn.

Đương nhiên, với tư cách là một nhà văn, ngay cả trong những tác phẩm chưa hoàn thiện ban đầu của Hardy, Woolf cũng đã nhận ra tài năng “giỏi quan sát tự nhiên” của ông:

…Ông hiểu sự khác biệt khi giọt mưa rơi trên rễ cây và khi rơi xuống đất canh tác; ông biết gió lướt qua cành cây sẽ tạo ra những âm thanh khác nhau. Nhưng ở một ý nghĩa rộng lớn hơn, ông cảm nhận được thiên nhiên là một sức mạnh, nhận ra thiên nhiên chứa đựng một tinh thần nào đó, có thể đồng cảm, chế giễu hoặc thờ ơ với số phận con người…” [12] (Trang 233)

Khi đọc tiểu thuyết của Hardy:

   Chúng ta hít thở sâu vẻ đẹp của đất mẹ. Đồng thời, chúng ta cũng được dẫn dắt vào một chiều sâu tinh thần buồn bã và ưu tư, nơi ngay cả vào những thời khắc bi thảm nhất, vẫn có thể nghiêm chỉnh giữ mình, và ngay cả khi đa số mọi người trở nên giận dữ, cũng tuyệt đối không đánh mất lòng trắc ẩn sâu sắc đối với những người đàn ông và phụ nữ đang chịu đựng khổ đau.” [12] (Trang 244)

Cách diễn giải đầy cảm tính và thi vị như vậy, có lẽ chỉ có những nhà phê bình từng là tiểu thuyết gia mới cảm nhận được, hay nói đúng hơn, chỉ những thi sĩ, tiểu thuyết gia kiêm nhà phê bình nhạy cảm như Woolf mới có thể cảm nhận được. Đọc những dòng văn như vậy, dường như ta đang nghe thấy âm thanh của thiên nhiên vậy. Điều tương tự cũng có thể cảm nhận được qua tài năng thi ca, trí tuệ và trí tưởng tượng tràn đầy trong từng câu chữ trong các bài phê bình của Woolf.

Có thể nói, mỗi nhà văn trong phòng triển lãm của Woolf là những người mà chúng ta cảm nhận được, nhưng lại rất khó diễn tả chính xác bằng ngôn ngữ cảm tính. Những trải nghiệm và cảm giác mà chúng ta dường như cảm nhận được nhưng lại không thể diễn đạt thành lời, Woolf “liên tục nắm bắt được chúng” (邓比语), có vẻ như được viết ra một cách tự do phóng khoáng nhưng kỳ thật lại rất sống động, tràn đầy đam mê và mỹ cảm. Như Forster đã nói, những bài phê bình của Woolf thậm chí “còn cho thấy bà là một tiểu thuyết gia hơn cả tiểu thuyết của bà.” [5] (Trang 12)

Đương nhiên, gắn liền với cảm xúc của Woolf, và với tư cách là một nhà văn lớn, một nữ văn sĩ tài hoa, những đặc trưng văn phong đẹp đẽ được thể hiện trong các bài phê bình của bà, đó chính là tài hoa của bà. Đúng như 邓比 đã nói: “Những tiểu luận của bà về văn học (được tập hợp trong “Độc giả phổ thông”) có vẻ tao nhã, ung dung.” [1] (Trang 415) Phê bình của Woolf không phô trương thuật ngữ, không sáo rỗng hay hàn lâm, không có “đầy những lời lẽ cũ rích đạo mạo nghiêm trang” giả tạo. Mỗi bài phê bình của bà đều có bút pháp tự nhiên, văn phong sống động, ngôn ngữ như mây trôi nước chảy, nhẹ nhàng và giàu tính linh hoạt. Chính vì lẽ đó, “bà đã thúc đẩy ánh sáng của ngôn ngữ Anh tiến lên một bước nhỏ.” [5] (Trang 22) Những đặc tính văn học đẹp đẽ như vậy đã mang lại cho Woolf danh tiếng là “bậc thầy văn xuôi truyền thống, người khởi xướng văn xuôi mới”, “người cuối cùng trong số các bậc thầy văn xuôi vĩ đại của Anh”. Và danh tiếng này, đối với nữ văn sĩ xinh đẹp và tao nhã Woolf, thực sự là xứng đáng.

CATEGORIES
Share This

COMMENTS

Wordpress (0)