Faux Pas: Từ thống khổ đến ngôn từ (Maurice Blanchot)
Từ thống khổ đến ngôn từ
Bạch Dương dịch từ bản tiếng Tây Ban Nha của Luis Ferrero Carracedo & Cristina de Peretti, “De la angustia al lenguaje en Faux Pas”. Bản dịch này kính đề tặng những người bạn vong niên đáng kính của tôi
Khai từ
Một nhà văn đề bút: “Tôi cô độc” hay như Rimbaud: “Tôi từ bên kia cõi chết” (“Soy realmente de ultratumba”), quả có thể coi là một chuyện khá khôi hài. Thật hài làm sao khi ý thức về cái cô độc của chính mình lại ngỏ cùng một độc giả và bằng những phương tiện vốn dĩ ngăn trở con người ta ở một mình. Từ “cô độc” cũng đại trà như từ “bánh mì”. Ngay từ khoảnh khắc ta thốt ra nó, tất tật những gì mà từ ngữ ấy loại trừ liền trở nên hiện hữu. Người ta hiếm khi xem trọng những nan đề này của ngôn ngữ. Chỉ cần từ ngữ hoàn thành phận sự của chúng và văn chương có vẻ vẫn khả hữu là đủ. Câu “Tôi cô độc” của nhà văn mang một ý nghĩa giản đơn (không có ai bên cạnh tôi) mà việc sử dụng ngôn ngữ chỉ mâu thuẫn một cách bề ngoài.
Nếu dừng ở những khúc mắc này, ta có nguy cơ đối diện với điều sau: ngờ rằng nhà văn đang nửa dối nửa thật. Paul Valéry bảo Pascal, người than phiền mình bị bỏ rơi trong thế gian: “Một kẻ bị bỏ rơi mà viết hay thì chưa hẳn đã khánh kiệt chừng nào còn sống sót dưới con tàu đắm ấy…” (“Un desamparo que escribe bien no está tan acabado mientras haya conservado del naufragio”); nhưng một kẻ bị bỏ rơi mà viết dở cũng đáng bị khiển trách tương tự. Làm sao anh ta có thể cô độc, kẻ đã thổ lộ với chúng ta rằng anh ta đang như thế? Anh ta triệu tập chúng ta để gạt chúng ta ra xa, anh ta nghĩ đến chúng ta để thuyết phục chúng ta rằng anh ta không nghĩ đến chúng ta; anh ta nói ngôn ngữ của loài người vào đúng cái lúc mà, đối với anh ta, chẳng còn ngôn ngữ hay con người nào nữa. Chúng ta thích tin rằng kẻ lẽ ra phải bị chia cắt khỏi chính mình bởi nỗi tuyệt vọng không chỉ giữ lại được suy nghĩ về một ai đó khác, mà còn sử dụng sự cô độc ấy cho một hiệu ứng xóa nhòa đi chính sự cô độc của mình.
Nhà văn chỉ thành thật một nửa sao? Xét cho cùng, điều đó chẳng mấy quan trọng và ta hãy còn thấy được tính chất hời hợt của lời trách cứ ấy. Có lẽ Pascal chỉ sầu đến thế bởi vì ông viết một cách xuất chúng. Trong sự kinh hoàng của thân phận mình, điều can dự vào như một nguyên nhân xót xa nhất, chính là cái năng lực mà ông vẫn giữ được để trở nên đáng ngưỡng mộ qua việc diễn đạt nỗi khốn cùng của mình. Không ít người khổ sở vì không diễn tả được trọn vẹn những gì họ trải nghiệm. Họ vật lộn với cái mờ mịt của cảm xúc. Họ ngỡ mình sẽ được khuây khỏa nếu biến được cái mớ hỗn độn mà họ lạc lối trong đó thành những từ ngữ chân xác. Nhưng người khác lại đau khổ vì là một thông dịch viên may mắn cho bất hạnh của mình. Cái tự do tinh thần mà anh ta cầm giữ, thứ cho phép anh ta thấy mình đang ở đâu, khiến anh ta nghẹt thở. Anh ta bị xé nát bởi sự hài hòa trong hình ảnh của mình, bởi cái vẻ hạnh phúc toát ra từ những gì anh ta viết. Anh ta trải nghiệm sự mâu thuẫn đó như một điều tất yếu phải nặng nề trong sự thăng hoa mà anh ta tìm thấy ở đó, thứ đặt dấu chấm hết cho nỗi chán chường của anh ta.
Nhà văn hoàn toàn có thể không viết. Điều đó đúng. Tại sao, trong sự cô độc tột cùng của mình, con người lại viết: “Tôi cô độc” – như Kierkegaard: “Tôi ở đây hoàn toàn một mình”? Ai buộc anh ta phải hoạt động như vậy trong tình cảnh mà, khi không còn biết gì về bản thân và phần còn lại ngoài một sự vắng mặt đè nén, anh ta trở nên hoàn toàn thụ động? Con người, rơi vào nỗi kinh hoàng và tuyệt vọng, có lẽ lượn quanh như một con thú bị dồn vào góc phòng. Ta có thể hình dung rằng anh ta sống mà bị tước đoạt cái suy nghĩ giúp anh ta phản chiếu nỗi bất hạnh của mình, bị tước đoạt cái nhìn cho phép anh ta nhận ra bộ mặt của nỗi bất hạnh, bị tước đoạt giọng nói cho phép anh ta than phiền về nó. Điên loạn, mất trí, anh ta sẽ thiếu các cơ quan để sống với người khác và với chính mình. Những hình ảnh đó, dù tự nhiên đến đâu, cũng không thuyết phục. Đối với người chứng kiến thông tuệ, con vật câm lặng hiện ra bị cầm tù trong sự cô độc của nó. Kẻ cô độc không phải là người trải nghiệm cảm giác cô độc; con quái vật của sự hoang tàn ấy đòi hỏi sự hiện diện của một người khác để sự hoang tàn của nó có ý nghĩa, một người khác mà, nhờ vào lý trí nguyên vẹn và các giác quan -mà anh ta đã bảo tồn được, làm cho sự bơ vơ vốn dĩ bất lực cho đến lúc đó trở nên khả hữu trong chốc lát.
Văn sĩ không được tự do ở một mình mà không biểu đạt rằng mình đang như thế. Ngay cả khi đã đạt đến cái vận mệnh khiến mọi thứ liên quan đến hành động viết trở nên vô nghĩa, anh ta vẫn bị ràng buộc vào những cấu hình từ ngữ; và, thậm chí, chính trong việc vận dụng cách diễn đạt mà anh ta trùng khớp nhất với cái hư vô không lời mà anh ta đã biến thành. Điều khiến ngôn ngữ bị hủy diệt trong anh ta cũng chính là điều khiến anh ta phải sử dụng ngôn ngữ. Anh ta giống như một người bị liệt nửa người, tìm thấy trong chính căn bệnh của mình cả nghĩa vụ lẫn sự cấm đoán đi lại. Anh ta bị buộc phải chạy không ngừng nghỉ để rồi mỗi chuyển động lại kiểm chứng rằng mình bị tước đoạt chuyển động. Anh ta càng tê liệt bao nhiêu thì các chi của anh ta lại càng tuân mệnh bấy nhiêu. Anh ta phải chịu đựng nỗi kinh hoàng biến đôi chân khỏe mạnh, những cơ bắp rắn chắc và bài tập thỏa mãn mà anh ta thực hiện được với chúng, thành bằng chứng và nguyên nhân cho sự bất khả trong việc đi lại của mình. Cũng giống như sự bơ vơ của bất kỳ con người nào vào một thời điểm nhất định ngụ ý rằng thật điên rồ khi tỏ ra hợp lý (anh ta muốn mất đi lý trí, nhưng lại tìm thấy lý trí của mình chính trong sự mất mát mà anh ta chìm đắm), nhà văn cũng vậy, bị định đoạt phải viết bởi chính sự im lặng và sự tước đoạt ngôn ngữ đang tác động lên anh ta. Khi chưa cô độc, anh ta viết hoặc không viết; anh ta chỉ trải nghiệm những giờ phút tìm kiếm và cân nhắc từ ngữ như một nhu cầu của nghề nghiệp, của thú vui hay của cảm hứng; anh ta tự huyễn mình khi nói về một đòi hỏi không thể cưỡng lại. Nhưng nếu anh ta rơi vào cực cùng cô độc, nơi những cân nhắc bên ngoài về công chúng, nghệ thuật, kiến thức lặn mất, anh ta không còn sự tự do nào khác ngoài việc trở thành chính cái mà hoàn cảnh của anh ta và nỗi chán vô tận mà anh ta cảm thấy muốn ngăn cản anh ta trở thành một cách tuyệt đối.
Nhà văn thấy mình trong tình trạng ngày càng khôi hài là không có gì để viết, không có cách nào để viết nó, và bị buộc bởi một sự cần thiết tột cùng phải luôn luôn viết nó. Không có gì để diễn đạt phải được hiểu theo nghĩa đơn giản nhất. Bất cứ điều gì anh ta muốn nói đều là hư vô. Thế giới, sự vật, tri thức đối với anh ta chỉ là những điểm tham chiếu xuyên qua khoảng không. Và chính anh ta đã bị giản lược thành hư vô. Hư vô là vật chất của anh ta. Anh ta từ chối những hình thức mà nó tự hiến mình cho anh ta như một cái gì đó. Anh ta muốn nắm bắt nó không phải trong một sự ám chỉ, mà trong sự thật riêng của nó. Anh ta tìm kiếm nó như cái không mà không phải là một cái không đối với cái này, cái kia, đối với mọi thứ, mà là cái không thuần túy và đơn giản. Hơn nữa, anh ta không tìm kiếm nó; nó bị trục xuất khỏi mọi cuộc tìm kiếm; nó không thể được xem như một mục đích; người ta không thể đề xuất như một mục tiêu cho ý chí cái thứ chiếm hữu ý chí bằng cách hủy bỏ nó: nó không là, đó là tất cả; câu “Tôi không có gì để nói” của nhà văn, cũng như của bị cáo, chứa đựng toàn bộ bí mật về thân phận cô độc của anh ta.
Điều khiến việc theo dõi những suy tư này trở nên khó khăn là cái danh xưng nhà văn dường như chỉ định một nghề nghiệp hơn là một trạng thái của con người. Một người thợ đóng giày chìm trong thống khổ có thể tự cười nhạo mình khi để người khác bước đi trong khi chính anh ta bị mắc kẹt trong một cái bẫy làm anh ta tê liệt. Tuy nhiên, chúng ta không nghĩ đến việc mô tả thống khổ của anh ta như thể đó là cách tồn tại của một người sửa giày. Cảm giác thống khổ chỉ gắn liền một cách ngẫu nhiên với một đối tượng và cho thấy chính xác rằng đối tượng đó, vì nó mà người ta lạc lối trong một cái chết vô tận, là không đáng kể đối với cảm giác mà nó gây ra và đối với con người mà nó hành hạ. Người ta chết đi khi tưởng tượng rằng mình đã mất đi bất kỳ đối tượng nào mình gắn bó, và trong nỗi kinh hoàng chết người đó, người ta cũng cảm thấy rằng đối tượng đó chẳng là gì cả, rằng nó chỉ là một dấu hiệu có thể thay thế, một cơ hội trống rỗng. Không có thứ gì mà không thể nuôi dưỡng thống khổ, và thống khổ trước hết là sự thờ ơ đối với cái tạo ra nó, mặc dù đồng thời dường như nó lại ràng buộc con người với nguyên nhân mà nó đã chọn.
Nhà văn đôi khi hiện ra một cách kỳ lạ như thể thống khổ là đặc trưng cho chức năng của anh ta, hơn nữa, như thể hành động viết lách đào sâu thống khổ đến mức liên kết nó với chính anh ta hơn là với bất kỳ loại người nào khác. Đến một lúc nào đó, nhà văn viết vì lòng trung thành với từ ngữ lại viết vì lòng trung thành với thống khổ; anh ta là nhà văn bởi vì nỗi lo âu nền tảng ấy đã tự mặc khải cho anh ta, và đồng thời, nó mặc khải cho anh ta trong tư cách là một nhà văn; hơn nữa, nó dường như chỉ tồn tại trên thế giới bởi vì trên thế giới có những người đã đưa nghệ thuật của các dấu hiệu đến với ngôn ngữ và sự chăm chút ngôn ngữ đến với văn tự, thứ đòi hỏi một ý chí đặc biệt, một ý thức thận trọng, việc sử dụng được đảm bảo các năng lực diễn ngôn. Đó là nơi mà trường hợp của nhà văn có một cái gì đó quá đáng và không thể chấp nhận được. Dường như thật khôi hài và khốn khổ khi thống khổ, thứ mở và đóng cả bầu trời, lại đòi hỏi, để tự biểu hiện, hoạt động của một người đàn ông ngồi bên bàn và vạch những con chữ trên giấy. Thực ra, có lẽ điều này gây ngạc nhiên, nhưng cũng giống như sự ngạc nhiên về việc, đối với sự cô độc của người điên, sự hiện diện của một nhân chứng sáng suốt lại được coi là một điều kiện cần thiết. Sự tồn tại của nhà văn mang lại bằng chứng rằng, trong cùng một cá nhân, bên cạnh con người thống khổ, vẫn tồn tại một con người điềm tĩnh, bên cạnh người điên một hữu thể hợp lý, và, gắn bó chặt chẽ với một người câm đã mất hết mọi lời, một nhà hùng biện làm chủ diễn ngôn. Trường hợp của nhà văn là một trường hợp đặc quyền vì nó đại diện một cách đặc quyền cho nghịch lý của thống khổ. Thống khổ đặt nghi vấn lên tất cả các thực tại của lý trí, các phương pháp, các khả năng, khả thể, các mục đích của nó, và tuy nhiên, nó lại áp đặt nó phải ở đó; nó ra lệnh cho nó phải là lý trí theo cách hoàn hảo nhất có thể; bản thân nó chỉ khả hữu bởi vì cái năng lực, mà nó làm cho bất khả và hủy bỏ, vẫn được duy trì với toàn bộ dung lượng của nó.
Dấu hiệu cho tầm quan trọng của anh ta là nhà văn không có gì để nói. Điều đó cũng thật lố bịch. Nhưng trò đùa đó có những đòi hỏi tối tăm. Trước hết, không phải lúc nào một người cũng không có gì để nói. Đôi khi một người nào đó tạm thời làm im bặt mọi lời nói biểu đạt mình bằng cách gác lại tri thức diễn ngôn, nắm bắt một dòng chảy im lặng tuôn ra từ đời sống nội tâm sâu thẳm của mình. Khi đó, người đó không nói gì vì năng lực nói đã bị gián đoạn; anh ta ở trong một địa hạt nơi từ ngữ không còn chỗ đứng, chưa từng tồn tồn tại, thậm chí không được đề xuất như một vết xước nhẹ của sự im lặng; anh ta hoàn toàn vắng mặt khỏi những gì được nói. Nhưng, đối với nhà văn, tình hình lại khác. Anh ta vẫn gắn bó với diễn ngôn; anh ta không từ bỏ lý trí mà là để trung thành với nó; anh ta có quyền uy trên ngôn ngữ mà anh ta không thể loại bỏ hoàn toàn. Đối với anh ta, không có gì để nói là cách tồn tại của một người luôn có điều gì đó để nói. Giữa cuộc chuyện trò, anh ta tìm thấy vùng lặng lẽ mà giờ đây anh ta phải ở lại.
Tình huống này đầy rẫy những dằn vặt mơ hồ. Nó không thể bị lẫn với cái cằn cỗi đôi khi đè nặng lên một nghệ sĩ. Nó thậm chí còn khác biệt đến mức tất cả những suy nghĩ cao quý và hiếm hoi mà anh ta có, sự phong phú và hạnh phúc của những hình ảnh, dòng chảy của những vẻ đẹp văn chương, đều là lý do khiến nhà văn sắp sửa đạt đến cái trống rỗng mà trong nghệ thuật của anh ta sẽ là câu trả lời cho thống khổ chiếm hữu cuộc đời anh ta. Anh ta không chỉ không đoạn tuyệt với từ ngữ, mà còn tiếp nhận được chúng trong sự lớn lao hơn, rực hơn, may mắn hơn bao giờ hết; anh ta có khả năng tạo ra những tác phẩm đa dạng nhất; có một mối quan hệ tự nhiên giữa những gì anh ta nghĩ là đúng đắn nhất và những gì anh ta viết là quyến rũ nhất; anh ta thấy việc kết hợp con số và logic thật dễ dàng một cách kỳ diệu; toàn bộ tinh thần của anh ta là ngôn ngữ. Đây là dấu hiệu đầu tiên cho thấy, nếu anh ta không có gì để nói, không phải vì thiếu phương tiện, mà bởi vì mọi thứ anh ta có thể nói đều nằm trong chi phối của cái hư vô mà thống khổ làm cho nó xuất hiện như đối tượng riêng của nó giữa những đối tượng tạm thời mà nó tự gán cho mình. Về phía cái hư vô kia, như về phía nguồn mạch phải làm chúng cạn kiệt, tất cả các năng lực văn chương đều chảy ngược, và anh ta hấp thụ chúng không phải để cố gắng diễn đạt nó, mà là vì một sự tiêu thụ không mục đích và không kết quả. Hiện tượng này thật lạ lùng. Nhà văn bị cái thống khổ của mình đòi hỏi một sự hy sinh bản thân đích thực. Anh ta phải tiêu xài, phải tiêu thụ những sức mạnh đã làm nên con người nhà văn của anh ta. Cũng cần phải có sự tiêu xài đó là thật. Một mặt, bằng lòng với việc không viết nữa; mặt khác, viết một tác phẩm nơi tập hợp, dưới dạng các hiệu ứng, tất cả các giá trị mà tinh thần chứa đựng một cách tiềm tàng là ngăn cản sự hy sinh diễn ra hoặc thay thế nó bằng một sự trao đổi. Điều được yêu cầu ở nhà văn thì đau đớn hơn vô cùng. Anh ta phải diệt thân thông qua một hành động thực sự đặt anh ta vào cuộc. Việc thực thi quyền năng của mình buộc anh ta phải hiến tế chính quyền năng đó. Tác phẩm anh ta làm ra có nghĩa là không có tác phẩm nào được làm ra cả. Nghệ thuật mà anh ta sử dụng là một nghệ thuật trong đó phải xuất hiện đồng thời sự thành công hoàn hảo và sự thất bại toàn diện, sự viên mãn của phương tiện và sự suy tàn không thể cứu vãn, thực tại và hư vô của kết quả.
Khi một người sáng tác một tác phẩm, tác phẩm đó có thể được định để phục vụ một mục đích nào đó, đạo đức, tôn giáo, chính trị, bên ngoài nó; người ta nói rằng nghệ thuật đang phục vụ những giá trị xa lạ; nó được trao đổi một cách hữu dụng để lấy những thực tại mà nó làm tăng giá trị. Nhưng, ngay cả khi cuốn sách không phục vụ gì cả, nó vẫn hiện ra như một hiện tượng đứt gãy trong tổng thể các mối quan hệ của con người vốn được xây dựng trên sự tương đương của các giá trị được trao đổi, trên nguyên tắc theo đó mỗi sự sản xuất năng lượng phải tương ứng với một năng lượng tiềm tàng trong một đối tượng được sản xuất và có khả năng được tái phóng dưới hình thức này hay hình thức khác vào vòng tuần hoàn không gián đoạn của các lực lượng; cuốn sách mà nghệ thuật đã sản sinh và không thể sản sinh ra bất kỳ loại giá trị nào khác ngoài những giá trị mà nó đại diện dường như là một ngoại lệ đối với quy luật giả định sự duy trì của mọi sự tồn tại; nó biểu thị một nỗ lực vô vị lợi; nó được hưởng lợi, với tư cách đặc quyền hoặc tai tiếng, từ một tình huống vô giá; nó tự quy giản về chính nó; đó là nghệ thuật vị nghệ thuật. Tuy nhiên -và những cuộc tranh luận bất tận về nghệ thuật vị nghệ thuật đã cho thấy điều đó-, tác phẩm nghệ thuật chỉ bị loại trừ khỏi quy luật chung của sự trao đổi một cách bề ngoài và đối với những con mắt thô thiển. Phải chăng tác phẩm đó không phục vụ gì cả?, các nhà phê bình nói; nhưng nó phục vụ một cái gì đó chính vì nó không phục vụ gì cả; sự hữu dụng của nó hệ tại ở việc biểu đạt phần vô dụng mà nếu không có nó thì không có nền văn minh nào là khả hữu; hoặc nó cũng phục vụ nghệ thuật, vốn là một mục đích của con người hoặc là một mục đích tự thân hoặc là hình ảnh của cái tuyệt đối, v.v. Người ta có thể ngụy biện theo hàng ngàn cách về điều này. Tất cả đều khá vô ích, bởi vì rõ ràng là tác phẩm nghệ thuật không đại diện cho một hiện tượng chi tiêu thực sự. Ngược lại, nó biểu thị một hoạt động biến đổi năng lượng có lợi. Tác giả đã sản xuất ra nhiều hơn chính mình; anh ta đã đưa những gì anh ta nhận được đến một điểm hiệu quả cao hơn; anh ta đã là người sáng tạo; và những gì anh ta đã tạo ra từ nay là một nguồn giá trị mà sự phong phú của nó vượt xa những sức lực đã được tiêu tốn để làm nó ra đời.
Nhà văn chìm trong thống khổ đặc biệt trải nghiệm rằng nghệ thuật không phải là một hoạt động thua lỗ; anh ta, người cố gắng đánh mất chính mình (và đánh mất mình với tư cách là một nhà văn), thấy rằng, khi viết, anh ta làm tăng tín dụng của nhân loại, do đó, cả tín dụng của chính mình, vì anh ta vẫn là con người; anh ta ban cho nghệ thuật những hy vọng và sự giàu có mới đè nặng lên anh ta; anh ta biến những mệnh lệnh tuyệt vọng mà anh ta nhận được thành những sức mạnh an ủi; anh ta cứu rỗi bằng hư vô. Mâu thuẫn này đến mức dường như không có mưu mẹo nào có thể chấm dứt nó. Những nỗi bất hạnh truyền thống của người nghệ sĩ -sống nghèo khổ, chết khi đang thực hiện tác phẩm của mình- tự nhiên không được tính đến trong cấu trúc tương lai của anh ta. Hy vọng của người theo chủ nghĩa hư vô -viết một tác phẩm, nhưng là một tác phẩm mang tính hủy diệt, đại diện, bởi chính bản chất của nó, cho một khả năng vô định về những thứ sẽ không còn nữa- cũng xa lạ với anh ta. Anh ta nhận ra ý định của người thứ nhất, kẻ tin rằng mình hy sinh sự tồn tại của mình trong khi thực tế là đặt toàn bộ nó vào công việc sẽ mang lại cho nó sự vĩnh cửu, và sự tính toán ngây thơ của người thứ hai, kẻ mang đến cho con người, dưới dạng những chấn động có giới hạn, một viễn cảnh đổi mới không giới hạn. Con đường của anh ta rất khác. Anh ta tuân theo thống khổ, và thống khổ ra lệnh cho anh ta phải đánh mất chính mình, mà không có sự mất mát nào được bù đắp bởi bất kỳ giá trị tích cực nào.
“Tôi không muốn đạt được một cái gì đó”, nhà văn tự nhủ. “Ngược lại, tôi muốn cái gì đó mà tôi theo đuổi, cái mà tôi là, khi tôi viết, không dẫn đến, bởi sự thật là tôi viết, không gì cả, dưới bất kỳ hình thức nào. Đối với tôi, điều không thể thiếu là trở thành một nhà văn nhỏ bé hơn vô hạn trong tác phẩm của mình so với trong chính bản thân mình, và điều đó với việc sử dụng hoàn toàn và trung thực tất cả các phương tiện của mình. Tôi mong muốn rằng khả năng sáng tạo đó, khi trở thành sự sáng tạo, không chỉ biểu đạt sự hủy diệt của chính nó cũng như sự hủy diệt của mọi thứ mà nó đặt nghi vấn, tức là mọi thứ, mà còn không biểu đạt nó. Đối với tôi, vấn đề là tạo ra một tác phẩm thậm chí không có cái thực tại là biểu đạt sự vắng mặt của thực tại. Cái gìn giữ một sức mạnh biểu đạt thì gìn giữ giá trị thực lớn nhất, ngay cả khi cái được biểu đạt không có giá trị nào; nhưng việc vô cảm không chấm dứt sự mơ hồ mà nó cũng rút ra từ đó điều sau: rằng khi đó nhu cầu không biểu đạt gì cả được biểu đạt”.
Đoạn độc thoại này là hư cấu, bởi vì nhà văn không thể tự đặt cho mình như một dự án, dưới hình thức một kế hoạch được cân nhắc và mạch lạc, cái mà đối với anh ta được yêu cầu như là cái đối lập với một dự án và trong sự thực hànhtối tăm và trống rỗng nhất. Hoặc, chính xác hơn, thống khổ của anh ta tăng lên với yêu cầu buộc anh ta phải theo đuổi, thông qua một công việc có phương pháp, với mối bận tâm mà người ta chỉ có thể giải thích được bằng một sự giải thể cấu trúc tức thời của chính mình. Ý chí của anh ta, với tư cách là sức mạnh thực tiễn để sắp xếp những gì khả hữu, đến lượt nó cũng trở nên thống khổ. Lý trí minh bạch của anh ta, luôn có khả năng tự trả lời trong một diễn ngôn, trong tư cách là minh bạch và diễn ngôn, cũng giống như sự điên rồ không thể xuyên thủng làm anh ta câm lặng. Logic đồng nhất với nỗi bất hạnh và với nỗi kinh hoàng của ý thức. Tuy nhiên, sự thay thế này chỉ có thể là tạm thời. Nếu quy tắc là tuân theo thống khổ và nếu thống khổ chỉ chấp nhận những gì làm tăng nó, thì việc cố gắng chuyển nó sang bình diện một dự án có thời hạn là tạm thời có thể chịu đựng được vì nỗ lực đó đưa nó đến đỉnh điểm của sự khó ở, nhưng điều đó không thể kéo dài; lý trí hành động nhanh chóng áp đặt sự vững chắc là quy luật của nó; thống khổ một lúc trước, bây giờ nó biến thống khổ thành lý trí; nó đảo lộn cuộc tìm kiếm lo âu thành một cơ hội cho sự lãng quên và nghỉ ngơi. Kể từ sự chiếm đoạt đó, và thậm chí trước khi nó xảy ra, chỉ đơn giản trong mối đe dọa mà việc sử dụng tinh thần thực hiện một cách ngờ vực nhất hé lộ, mọi công việc đều trở nên bất khả. Thống khổ đòi hỏi phải từ bỏ những gì có nguy cơ làm nó yếu đi; nó đòi hỏi điều đó, và sự từ bỏ đó, khi biểu thị sự thất bại của thỏa thuận mong muốn do chính khó khăn mà nó bao hàm, lại làm tăng nó một cách tột cùng; thống khổ thậm chí trở nên lớn đến mức, được giải thoát khỏi các phương tiện của nó và mất liên lạc với những mâu thuẫn mà nó chìm đắm trong đó, nó hướng tới một sự thỏa mãn kỳ lạ; bằng cách tự quyến rũ mình, nó không còn nhìn thấy gì ngoài chính nó, nó là cái nhìn tự che mờ và cảm giác tự phân hủy; một loại tự mãn được cấu thành từ sự bất túc của nó; chuyển động xé nát trong đó nó tồn tại kéo nó về phía một sự đứt gãy dứt khoát; nó sẽ mất mình trong dòng chảy dẫn nó đến mất tất cả. Nhưng, trong tình huống cực đoan mới này, cái loại thống khổ tan chảy trong cơn say mà nó cảm thấy mình đang biến thành lại đẩy nó ra ngoài. Với một sức nặng gia tăng, nó quay trở lại với sự diễn dịch logic khiến nó trải nghiệm một cách hợp lý, tức là, bị tước đi những thú vui, những mâu thuẫn lại đặt nó liên tục vào hiện tại. Sự hiện thực hóa lại được dò dẫm một lần nữa, càng tối tăm hơn khi nó được cố gắng một cách dữ dội hơn và càng được tìm kiếm hơn khi nó được thể hiện, dưới sự đe dọa của một thất bại mới, bởi ký ức về thất bại. Công việc tạm thời khả hữu trong sự bất khả làm nó trở nên đau đớn hơn. Và cứ thế cho đến khi khả năng đó tự hiện ra như là thực tại bằng cách phá hủy phần bất khả vốn là điều kiện của nó.
Nhà văn không thể không có dự đồ của mình vì cái chiều sâu của thống khổ của anh ta gắn liền với sự thật rằng anh ta không thể không có một sự hiện thực hóa có phương pháp. Nhưng anh ta phải chịu đựng sự cám dỗ của những dự án lạ lùng. Ví dụ, anh ta muốn viết một cuốn sách trong đó việc đặt cược tất cả các lực lượng có ý nghĩa sẽ được tái hấp thu vào cái vô nghĩa. (Cái vô nghĩa có phải là cái thoát khỏi sự thông minh khách quan không? Những trang sách được cấu tạo bởi một chuỗi từ không liên tục, những từ không giả định bất kỳ ngôn ngữ nào, luôn có thể, nếu thiếu một ý nghĩa có thể gán được, tạo ra, thông qua sự hòa hợp hoặc bất hòa của âm thanh, một hiệu ứng đại diện cho lý do của chúng). Hoặc nhà văn đưa ra một tác phẩm mà từ đó giả thuyết về một độc giả bị loại trừ. (Lautréamont dường như đã thực hiện giấc mơ đó. Làm sao để không bị đọc? Người ta muốn tổ chức cuốn sách theo mô hình một ngôi nhà dễ dàng mở cửa cho khách, nhưng một khi đã vào trong, không chỉ phải lạc lối trong đó, mà còn bị mắc kẹt trong một cái bẫy nguy hiểm, ngừng là cái mà mình đã là, chết đi. Nhà văn phá hủy tác phẩm của mình ngay khi viết xong? Đôi khi xảy ra, đó là một subterfuge trẻ con, không có gì được thực hiện chừng nào cấu trúc của tác phẩm không làm cho độc giả trở nên bất khả, và trước hết, độc giả chính là nhà văn. Cuối cùng, chúng ta tưởng tượng ra một cuốn sách mà, một mặt là con người, mặt khác là côn trùng, nhà văn sẽ không có quyền truy cập vào nó trừ khi viết nó; một cuốn sách sẽ làm anh ta gục ngã với tư cách là quyền lực đọc mà không làm anh ta biến mất với tư cách là lý trí viết, sẽ tước đi của anh ta thị giác, trí nhớ, sự thấu hiểu về những gì anh ta đã sáng tác bằng tất cả sức lực và tinh thần của mình). Hoặc anh ta nghĩ đến một tác phẩm xa lạ với thống khổ của mình đến mức nó sẽ là tiếng vọng của thống khổ đó bởi sự im lặng mà nó duy trì. (Nhưng cái chưa biết không bao giờ là thật; bất kỳ câu nói tầm thường nào cũng là lời thú nhận của sự tuyệt vọng nằm sâu trong ngôn ngữ).
Tất cả những mưu mẹo này đều nợ tính chất ấu trĩ của chúng cái sự nghiêm túc mà chúng được cân nhắc và định hình. Trò trẻ con báo trước sự thất bại của nó bằng cách tự gán cho mình một lối tồn tại quá nhẹ nhàng để thành công hay không thành công có thể phê chuẩn nó. Những nỗ lực này có chung một điểm là tìm kiếm một giải pháp hoàn chỉnh cho một tình huống mà một giải pháp hoàn chỉnh sẽ phá hủy và biến thành cái đối lập với nó. Chúng không nhất thiết phải thất bại, nhưng chúng không được thành công. Chúng cũng không nhất thiết phải cân bằng trong một trật tự có chủ ý giữa thành công và thất bại, để giao cho sự mơ hồ trách nhiệm của một quyết định. Tất cả các dự án mà chúng ta đã gợi lên đều có thể, trên thực tế, được tiếp nhận trong sự mơ hồ và thậm chí không thể hình dung được nếu không nằm dưới sự che chở của một ý định có nhiều hình dạng. Sự mất mát ý nghĩa mà nhà văn yêu cầu từ một văn bản bị tước đoạt mọi sự thông minh, anh ta nhận được từ văn bản hợp lý nhất trong trường hợp nó dường như biểu đạt tính chất hiển nhiên của nó như một thách thức đối với sự hiểu biết tức thì. Anh ta thêm vào đó sự tối tăm bổ sung này: rằng có những nghi ngờ về sự vô nghĩa của ý nghĩa đó; rằng lý trí, khi tự đùa cợt trong những sự công nhận quen thuộc của nó, không chết trong trò chơi đó mà chỉ vì nó ngoan cố từ chối chơi. Sự mơ hồ đến mức người ta không thể tin lời nó dù là lý trí hay phi lý. Có lẽ trang sách phi lý – vì quá hợp lý – lại thực sự hợp lý; có lẽ nó không có chút ý nghĩa nào. Làm sao để quyết định? Tính chất của nó gắn liền với một sự thay đổi góc nhìn, và không có gì trong nó cho phép cố định nó từ một góc độ dứt khoát. (Người ta luôn có thể nói rằng ý nghĩa của nó hệ tại ở việc thừa nhận cả hai cách giải thích, ở việc nhuốm màu lúc thì của lẽ thường, lúc thì của sự vô nghĩa, và do đó nó có thể được xác định như là sự bất định giữa hai khả năng; nhưng chính điều đó lại phản bội cấu trúc của nó, vì không có gì nói rằng sự thật của nó hệ tại ở việc lúc thì là cái này lúc thì là cái kia; ngược lại, có thể nó chỉ là cái này hoặc cái kia; nó đòi hỏi một cách cấp bách sự lựa chọn đó; nó thêm vào sự bất định mà người ta muốn nắm bắt nó cái yêu sách cũng được xác định một cách tuyệt đối bởi một trong hai thuật ngữ mà nó dao động giữa chúng).
Tuy nhiên, sự mơ hồ không phải là một giải pháp cho nhà văn thống khổ. Nó không thể được coi như một giải pháp. Kể từ thời điểm nó là một phần của một dự án và xuất hiện như là biểu hiện của một sự tính toán, nó đánh mất đi tính đa dạng vốn là bản chất của nó và kết tinh dưới hình dạng một mưu mẹo mà sự phức tạp bên ngoài của nó liên tục bị giản lược bởi ý định đã sinh ra nó. Tôi có thể đọc một bài thơ với hai, ba, có lẽ không có ý nghĩa nào, nhưng tôi không nghi ngờ về ý nghĩa của những ý nghĩa khác nhau đó và tôi thấy trong chúng quyết tâm đến với tôi thông qua câu đố. Ở đâu câu đố tự thể hiện như vậy, nó biến mất. Nó chỉ là câu đố khi nó không tồn tại tự thân, khi nó ẩn mình sâu đến mức nó tự rút lui trong chính cái làm nên bản chất rút lui của nó. Nhà văn chìm trong thống khổ gặp phải thống khổ của mình như một câu đố, nhưng anh ta không thể dùng đến câu đố để tuân theo thống khổ. Anh ta không thể tin rằng, bằng cách viết dưới mặt nạ, bằng cách mượn rất nhiều bút danh, bằng cách trở nên vô danh, anh ta đã giải quyết xong xuôi với sự cô độc mà anh ta có định mệnh phải nắm bắt trong chính hành động viết. Anh ta không có phương tiện, khi chính anh ta là một câu đố, một câu đố với tư cách là nhà văn phải viết và không viết, để trung thành, thông qua câu đố, với bản chất bí ẩn của mình. Anh ta tự biết mình là sự dằn vặt, nhưng sự dằn vặt đó không bị giam cầm trong một cảm giác cụ thể, nó không phải là nỗi buồn hơn là niềm vui, cũng không phải là kiến thức được trải nghiệm trong cái không thể biết đã tạo ra nó; sự dằn vặt tự biện minh bằng mọi thứ và tự giải thoát khỏi mọi thứ, thích ứng với bất kỳ đối tượng nào và thoát khỏi, thông qua bất kỳ đối tượng nào, sự vắng mặt của đối tượng, mà chúng ta tin rằng mình nắm bắt được trong sự rùng mình qua đó cái chết được liên kết với cảm giác tồn tại, nhưng lại làm cho cái chết trở nên lố bịch so với khoảng trống mà nó đào sâu và tuy nhiên, không cho phép chúng ta từ chối nó, mà ngược lại, đòi hỏi chúng ta phải chịu đựng và muốn nó, và biến sự giải thoát của nó thành một sự dằn vặt tồi tệ hơn, được tăng cường bởi chính cái làm nhẹ nó đi. Nói về sự dằn vặt đó: tôi tuân theo nó bằng cách bỏ mặc tư tưởng viết của mình cho sự dao động, bằng cách biểu đạt nó thông qua một mật mã, là thể hiện nó như thể nó chỉ quan tâm đến tôi trong cái bí ẩn mà nó tự thể hiện; tuy nhiên, tôi không biết nó như là bí ẩn hay quen thuộc, không như là chìa khóa của một thế giới không có chìa khóa, cũng không như là câu trả lời cho sự vắng mặt của câu hỏi; nếu nó phơi bày tôi trước câu đố, đó là bằng cách từ chối liên kết tôi với câu đố; nếu nó xé nát tôi bằng sự hiển nhiên, đó chính là bằng cách xé nát tôi; nó ở đó, tôi chắc chắn về điều đó, nhưng nó ở đó trong bóng tối, và tôi không thể duy trì sự chắc chắn đó nếu không có sự sụp đổ của mọi điều kiện của sự chắc chắn, và trước hết, của cái mà tôi là khi tôi chắc chắn rằng nó ở đó.
Nếu sự mơ hồ, đối với con người thống khổ, là phương thức mặc khải thiết yếu của anh ta, thì phải tin rằng thống khổ có điều gì đó để mặc khải cho anh ta mà anh ta lại không thể nắm bắt được; rằng nó đặt anh ta trước một đối tượng mà anh ta chỉ cảm thấy sự vắng mặt chóng mặt của nó; rằng nó loan báo cho anh ta, với sự thất bại và cả với sự thật rằng thất bại không chấm dứt điều gì, một khả năng tối cao mà, với tư cách là con người, anh ta phải từ bỏ, nhưng ý nghĩa và sự thật của nó anh ta ít nhất có thể hiểu được qua sự tồn tại của thống khổ. Sự mơ hồ giả định một bí mật mà chắc chắn được biểu đạt khi nó biến mất, nhưng trong sự biến mất đó, nó tự hé lộ như một sự thật khả hữu. Có một thế giới bên kia mà có lẽ, nếu tôi đạt tới, tôi sẽ chỉ đạt tới chính mình, nhưng nó cũng có một ý nghĩa bên ngoài tôi, và thậm chí đối với tôi nó chỉ có ý nghĩa đó là hoàn toàn ở bên ngoài tôi. Sự mơ hồ là ngôn ngữ mà một sứ giả duy trì, người muốn dạy cho tôi những gì tôi không thể học được và, khi hoàn thành bài giảng của mình, lại cảnh báo tôi rằng tôi không học được gì từ những gì anh ta dạy tôi. Một niềm tin mơ hồ như vậy không vắng mặt trong những khoảnh khắc nhất định của thống khổ. Nhưng đến lượt mình, thống khổ chỉ có thể xé nát nó trong tất cả những gì tích cực mà nó vẫn còn có. Nó biến nó thành một gánh nặng đè bẹp và tuy nhiên lại quy về hư vô. Nó biến cái miệng đang nói, nói một cách khéo léo qua sự hỗn loạn của các ngôn ngữ, qua sự im lặng, sự thật, lời nói dối, thành cơ quan bị kết án phải nói một cách say mê để không nói gì cả. Nó giữ lại sự mơ hồ, nhưng tước đi nhiệm vụ của nó. Từ bài đọc đầy những hiểu lầm đó, thứ giữ cho tinh thần hồi hộp với hy vọng về một sự thật không thể biết, nó không để lại gì ngoài mê cung của những ý nghĩa đa dạng trong đó tinh thần tiếp tục cuộc tìm kiếm của mình mà không có hy vọng về một sự thật khả hữu.
Thống khổ không có gì để mặc khải và đến lượt nó cũng thờ ơ với sự mặc khải của chính mình. Nó không quan tâm đến việc được mặc khải hay không; nó kéo kẻ đã kết hợp với nó về phía hình thức tồn tại trong đó yêu cầu phải tự nói ra đã bị vượt qua. Kierkegaard đã biến cái ma quỷ thành một trong những hình thức sâu sắc nhất của thống khổ, và cái ma quỷ từ chối giao tiếp với bên ngoài và không muốn tự thể hiện; ngay cả khi nó muốn, nó cũng không thể; nó bị giam hãm trong cái làm cho nó không thể diễn tả được; nó thống khổ vì sự cô độc và vì nỗi sợ hãi rằng sự cô độc có thể bị phá vỡ. Nhưng đó là bởi vì, đối với Kierkegaard, tinh thần phải tự mặc khải, thống khổ đến từ việc, khi mọi giao tiếp trực tiếp đều bất khả, việc đóng cửa trong nội tâm cô lập nhất xuất hiện như là con đường đích thực duy nhất để đi đến người khác, một con đường mà đến lượt nó chỉ có lối ra nếu nó tự áp đặt mình là vô lối thoát. Tuy nhiên, thống khổ, dù có đè nặng như một tảng đá lên cá nhân mà nó đè bẹp và làm tan nát những gì anh ta có chung với con người, không dừng lại ở thảm kịch của sự cắt xén đó và, để làm cho anh ta ra khỏi nơi ẩn náu nơi sống là sống bị giam cầm, nó quay lại chống lại chính tính cá nhân, chống lại khát vọng điên cuồng, bị xé nát và xé nát người khác, của việc chỉ là chính mình. Thống khổ không cho phép người cô độc được ở một mình. Nó tước đi của anh ta các phương tiện để có mối quan hệ với người khác, làm cho anh ta xa lạ hơn với thực tại con người của mình như thể anh ta đột nhiên bị biến thành một loại ký sinh trùng nào đó; nhưng, một khi bị tước đoạt theo cách đó và sẵn sàng chìm vào sự đặc thù quái dị của mình, thống khổ lại đẩy anh ta ra khỏi chính mình và, trong một sự dằn vặt mới mà anh ta trải nghiệm như một sự tỏa ra ngột ngạt, nó hòa lẫn anh ta với cái không phải là anh ta, biến sự cô độc của anh ta thành một biểu hiện của sự giao tiếp của anh ta, và sự giao tiếp đó thành ý nghĩa mà sự cô độc của anh ta có được, và, tiếp tục với sự đồng nghĩa đó, thành một lý do mới để là thống khổ được thêm vào thống khổ.
Nhà văn không viết để biểu đạt thao thức như là quy luật của mình. Anh ta viết không mục đích, trong một hành động tuy nhiên lại có tất cả các đặc điểm của một sự sáng tác được cân nhắc và nỗi thao thức của nó đòi hỏi, ở mọi thời điểm, sự hiện thực hóa của nó. Anh ta không tìm cách biểu đạt cái tôi thống khổ của mình, cũng không phải cái tôi đã mất đi đối với chính mình; nỗi lo âu muốn tự biểu hiện, như thể, khi tự biểu hiện, nó mơ ước được giải thoát, không có ích gì cho anh ta; nhà văn không phải là người phát ngôn của nó hay người phát ngôn của một sự thật không thể tiếp cận nào đó sẽ ở đó; anh ta tuân theo một yêu cầu và câu trả lời mà anh ta công bố không liên quan gì đến yêu cầu đó. Phải chăng trong thống khổ có một sự chóng mặt ngăn cản nó được truyền đạt? Theo một nghĩa nào đó, có, vì nó dường như không thể dò thấu; con người không thể nói ra nỗi dằn vặt của mình; nỗi dằn vặt của anh ta tuột khỏi tay anh ta; anh ta tin rằng mình sẽ không thể biểu đạt được nó là về cái gì; anh ta tự nhủ: mình sẽ không bao giờ dịch chuyển một cách trung thực nỗi đau này. Nhưng đó là bởi vì anh ta tưởng tượng rằng có một cái gì đó để dịch chuyển; anh ta hình dung tình huống của mình theo mô hình của tất cả các tình huống khác của con người; anh ta muốn trình bày nội dung của nó; anh ta theo đuổi ý nghĩa của nó. Thực ra, thống khổ không có những ngóc ngách bí ẩn; tất cả nó nằm trong sự hiển nhiên làm cho người ta nhận thấy nó ở đó; nó được mặc khải hoàn toàn khi ai đó nói: tôi đang thống khổ; người ta có thể viết hàng tập sách để biểu đạt những gì không phải là thống khổ, người ta có thể mô tả nó dưới những hình thức tâm lý đáng chú ý nhất của nó, người ta sẽ liên kết nó với những khái niệm siêu hình cơ bản; trong tất cả mớ hỗn độn đó sẽ không có gì nhiều hơn những gì có trong các từ: tôi đang thống khổ; và chính những từ đó có nghĩa là không có gì khác ngoài thống khổ.
Tại sao thống khổ lại ghê tởm việc bị triệu tập ra ngoài? Nó là bên ngoài cũng như bên trong. Con người mà trong đó nó đã tự thể hiện (điều này không có nghĩa là nó đã cho anh ta thấy đáy của bản chất mình, vì không có đáy nào cả), con người mà nó đã nắm bắt sâu sắc, tự thể hiện trong những biểu hiện khác nhau mà nó thu hút anh ta; anh ta không tự thể hiện một cách tự mãn và không che giấu một cách thận trọng; anh ta không ghen tị với sự thân mật của mình, không trốn chạy cũng không tìm kiếm những gì phá vỡ nó; anh ta không thể gán một tầm quan trọng dứt khoát cho sự cô độc hay sự hợp nhất của mình; thống khổ khi từ chối, thống khổ hơn khi trao mình, anh ta cảm thấy mình bị ràng buộc với một yêu cầu mà cái có hoặc không của thực tại không thể thay đổi. Về nhà văn nhận ra toàn bộ nghịch lý trong nhiệm vụ của mình với niềm đam mê luôn được che giấu mà luôn muốn hé lộ, phải nói rằng anh ta thực hiện sự tra tấn của mình, rằng anh ta biến nó thành một vật, rằng anh ta gán nó cho mình như một đối tượng cần được thể hiện, chắc chắn không thể tiếp cận nhưng tuy nhiên, tương tự như tất cả các đối tượng mà nghệ thuật có chức năng biểu đạt. Tại sao nỗi bất hạnh của thân phận anh ta lại hệ tại ở việc anh ta phải thể hiện thân phận đó với hậu quả là, nếu anh ta thành công trong việc thể hiện nó, nỗi bất hạnh của anh ta sẽ biến thành niềm vui, số phận của anh ta sẽ được thực hiện hoàn toàn? Anh ta không phải là nhà văn của nỗi bất hạnh của mình, và nỗi bất hạnh của anh ta không đến từ việc anh ta là nhà văn, nhưng, khi đối mặt với sự cần thiết phải viết, anh ta không còn có thể thoát khỏi nó, kể từ thời điểm anh ta chịu đựng nó như một nhiệm vụ bất khả thi, bất khả thi bất kể cách thức thực hiện nó và, tuy nhiên, lại khả hữu trong sự bất khả đó.
Tôi không có gì để nói về thống khổ, và ngay khi tôi để mình bị kéo vào sự im lặng, nó không rình rập tôi để được biểu đạt. Nhưng thống khổ cũng làm cho tôi không có gì để nói về bất cứ điều gì, và nó không rình rập tôi ít hơn khi tôi muốn gán cho nhiệm vụ của mình một mục đích biện minh cho nó. Tuy nhiên, tôi không được phép viết bất cứ điều gì. Cảm giác về sự vô ích của những gì tôi làm gắn liền với cảm giác khác rằng không có gì nghiêm trọng hơn thế. Tôi đứng trước tối hậu thư của cái bất cứ điều gì không phải do kết quả của một mệnh lệnh tuyên bố với tôi: mọi thứ đều được phép, hãy làm những gì bạn muốn, mà là do giới hạn của một tình huống biến mọi thứ quan trọng đối với tôi thành tương đương với một cái bất cứ điều gì và từ chối tôi cái bất cứ điều gì đó chính xác khi nó không còn quan trọng đối với tôi nữa. Tôi có thể đánh cược số phận của mình vào những con xúc xắc mỗi khi, khi đánh cược nó như một sự ngẫu nhiên bên ngoài tôi, tôi coi nó như một số phận hoàn toàn gắn liền với tôi, nhưng, ngay cả khi những con xúc xắc ở đó để biến thành sự tùy hứng cái định mệnh quá đau đớn mà tôi không còn có thể mong muốn, tôi trở thành một người chơi quan tâm đến việc chơi và, do sự quan tâm đến trò chơi đó, làm cho trò chơi trở nên bất khả (nó không còn là một trò chơi nữa). Cũng vậy, nếu nhà văn muốn chọn ngẫu nhiên những gì anh ta viết, anh ta chỉ có thể làm điều đó nếu hoạt động đó đại diện cho cùng một yêu cầu về suy ngẫm, cùng một sự tìm kiếm ngôn ngữ, cùng một hiệu ứng đau đớn và vô ích như hành động viết. Nghĩa là, đối với anh ta, chọn ngẫu nhiên là…viết, viết bằng cách biến tinh thần và sự vận dụng nhuần nhuyễn tài năng của mình thành một cái trông như chỉ là ngẫu nhiên
Đối với con người ta, việc vận dụng lý trí một cách nghiêm ngặt, bám siết lấy nó như vào một sự trùng hợp của những biến cố tình cờ, sẽ luôn luôn đau đớn hơn là uốn cong nó theo một sự mô phỏng các hiệu ứng ngẫu nhiên. Hơi bị dễ để soạn thảo một văn bản với một chuỗi các chữ cái được lấy ngẫu nhiên. Khó hơn chút để sáng tác văn bản đó khi người ta trải nghiệm sự cần thiết của nó. Nhưng cực kỳ khó khăn để tạo ra một tác phẩm ý thức và cân bằng nhất bằng cách đồng hóa ở mỗi thời điểm các lực lượng hợp lý tạo ra nó với một trò chơi tùy hứng đích thực. Theo nghĩa đó, các quy tắc xác định nghệ thuật viết, những sự thực hành được đưa vào đó, những hình thức cố định biến nó thành một hệ thống cần thiết, tất cả những chướng ngại vật không thể vượt qua đối với việc gieo xúc xắc, đối với nhà văn lại càng quan trọng hơn khi chúng làm cho hành động ý thức trở nên mệt mỏi hơn, qua đó lý trí tuân thủ các quy tắc đó phải đồng nhất với sự vắng mặt của các quy tắc. Nhà văn tự giải thoát khỏi các giới luật để phó thác mình cho sự ngẫu nhiên đã thiếu sót trong yêu cầu ra lệnh cho anh ta không thử thách sự ngẫu nhiên nếu không phải dưới hình thức một tinh thần phục tùng các giới luật. Anh ta cố gắng thoát khỏi trí thông minh sáng tạo của mình được trải nghiệm như một vận may bằng cách trực tiếp phó mình cho vận may. Anh ta dùng đến những con xúc xắc của vô thức vì anh ta không thể chơi xúc xắc với ý thức tột cùng. Anh ta, ngẫu nhiên, giới hạn sự ngẫu nhiên. Từ đó, anh ta tìm kiếm những văn bản bị tàn phá bởi sự phiêu lưu và cố gắng tạm thời thỏa hiệp với sự cẩu thả. Anh ta cảm thấy rằng như vậy mình gần gũi hơn với đam mê ban đêm của mình. Nhưng đó là bởi vì, đối với anh ta, bên cạnh đêm vẫn còn ngày và, vì lòng trung thành với các quy tắc của sự rõ ràng, anh ta cần phải phản bội chính mình đối với những gì thiếu hình dạng và quy luật.
Sự chấp nhận các quy tắc có giới hạn ở chỗ, khi chúng đã bị xóa mờ và trở thành thói quen, chúng hầu như không còn giữ lại gì hình thức cấp bách của mình và mang tính tự phát của cái tình cờ. Hầu hết thời gian, phó mình cho ngôn ngữ là buông xuôi. Người ta để mình bị cuốn đi bởi một cơ chế đổ lên nó toàn bộ trách nhiệm của hành động viết. Lối viết tự động thực sự là hình thức viết thông thường, lối viết đã biến những nỗ lực có chủ ý và những lần gạch xóa của tinh thần thành những tự động hóa. Ở thái cực đối lập với lối viết tự động là ý muốn thống khổ biến những món quà của sự ngẫu nhiên thành những sáng kiến được cân nhắc và rõ ràng hơn là mối bận tâm nhận lãnh trách nhiệm của ý thức tuân thủ các quy tắc hoặc phát minh ra chúng như thể nó là một sức mạnh tương tự về mọi mặt với sự ngẫu nhiên. Bản năng, trước thống khổ, đưa chúng ta vào thế chạy trốn các quy tắc, do đó, nếu bản thân nó không phải là sự chạy trốn khỏi thống khổ, đến từ sự cần thiết phải tìm kiếm chúng như những quy tắc thực sự, như sự mạch lạc đòi hỏi và không còn như những thói quen và phương tiện của một sự thoải mái truyền thống. Tôi gắng tạo cho mình một quy luật mới, và tôi không tìm kiếm nó vì nó mới hay vì nó sẽ là của tôi – ý nghĩ về sự mới lạ hay độc đáo đó, trong hoàn cảnh của tôi, sẽ là lố bịch, mà bởi vì sự mới lạ của nó là sự bảo đảm rằng nó thực sự là quy luật đối với tôi, rằng nó áp đặt mình với một sự nghiêm ngặt mà tôi ý thức được và làm cho tôi cảm thấy đau đớn hơn rằng nó không có ý nghĩa gì hơn một lần gieo xúc xắc.
Từ ngữ mang lại cho người viết cảm giác rằng chúng được thói quen ra lệnh cho anh ta, và anh ta tiếp nhận chúng với nỗi khó ở khi tìm thấy trong đó một kho dự trữ khổng lồ những sự dễ dàng và hiệu ứng được dàn dựng sẵn mà năng lực của anh ta không hề có phần trong đó. Sự khó ở đó có thể dẫn anh ta đến việc hoàn toàn từ chối những từ ngữ của đời sống thực tế, đến việc cắt đứt giọng nói quen thuộc mà anh ta lười biếng lắng nghe, ít bị cuốn hút bởi những gì anh ta viết dưới ảnh hưởng của giọng nói đó hơn là bởi những cử chỉ và chỉ dẫn của người chia bài tại bàn chơi. Khi đó, anh ta cảm thấy cần thiết phải tự mình chiếm lại các từ ngữ và, bằng cách hiến tế chúng trong các năng lực phục dịch của chúng, chính xác là trong khả năng phục vụ anh ta của chúng, để giành lại, với sự nổi loạn của chúng, quyền lực mà anh ta có được để trở thành chủ nhân của chúng. Lý tưởng về “những từ ngữ tự do” không nhằm mục đích giải phóng các từ ngữ khỏi mọi quy tắc, mà là giải phóng chúng khỏi một quy tắc mà người ta không còn chịu đựng được nữa để hạι chúng vào một quy luật mà người ta thực sự cảm nhận được. Có một nỗ lực biến hành động viết thành nguyên nhân của một sự xáo trộn trật tự và một cơn kịch phát của ý thức càng thống khổ hơn khi ý thức về một sự quy định không thể phá vỡ đó cũng là ý thức về một sự thiếu hụt trật tự tuyệt đối. Dưới ánh sáng này, ngay lập tức trở nên rõ ràng rằng việc phát minh ra các quy tắc mới không hợp pháp hơn việc tái phát minh các quy tắc cũ; ngược lại, việc trả lại cho thói quen giá trị thực hành của nó, đánh thức trong ngôn ngữ thông thường mệnh lệnh đã được thực hiện trong đó, tuân thủ thói quen như chính tiếng gọi của sự suy ngẫm, còn khó khăn hơn. Mang lại một ý nghĩa tinh khôi hơn cho lời nói của bộ lạc có thể hệ tại ở việc mang lại cho lời nói một ý nghĩa mới, nhưng cũng ở việc mang lại cho lời nói ý nghĩa cũ của chúng, ban tặng cho chúng ý nghĩa mà chúng có bằng cách làm sống lại chúng như chúng vẫn hằng là.
Nếu tôi đọc, ngôn ngữ, dù là logic hay chỉ là giai điệu (phi diễn ngôn), làm tôi tuân thủ một lẽ thường mà, bởi không liên quan trực tiếp đến con người tôi, xen vào giữa thống khổ của tôi và tôi. Nhưng nếu tôi viết, chính tôi là người làm cho lẽ thường tuân thủ ngôn ngữ và đối với hành động biểu nghĩa đó, tôi dốc hết mình đến hiệu quả tột cùng, đó là mang lại một ý nghĩa. Mọi thứ, trong tinh thần của tôi, do đó, cố gắng trở thành một kết nối cần thiết và một giá trị đã được thử thách; mọi thứ, trong ký ức, là ký ức về một ngôn ngữ chưa được phát minh và là sự phát minh ra một ngôn ngữ được ghi nhớ; mỗi thao tác tương ứng với một ý nghĩa và, đối với toàn bộ các thao tác, một ý nghĩa khác rằng không có ý nghĩa chính xác nào cho mỗi thao tác trong số chúng; các từ có ý nghĩa của chúng như là sự thay thế cho một ý tưởng, nhưng cũng như là sự kết hợp của âm thanh và thực tại vật lý; các hình ảnh tự biểu đạt như là hình ảnh và các suy nghĩ khẳng định sự cần thiết kép liên kết chúng với những biểu hiện nhất định và biến chúng thành suy nghĩ của những suy nghĩ khác. Đó là lúc người ta có thể nói rằng mọi thứ được viết ra đều có ý nghĩa lớn nhất có thể đối với người viết nó, nhưng cũng có ý nghĩa rằng nó là một ý nghĩa gắn liền với sự ngẫu nhiên, rằng nó là sự vô nghĩa. Đương nhiên, vì ý thức thẩm mỹ chỉ ý thức được một phần những gì nó làm, nỗ lực đạt đến sự cần thiết tuyệt đối, và do đó sự phù phiếm tuyệt đối, luôn luôn là vô ích. Nó không thể đạt được mục tiêu, và sự bất khả trong việc đạt được mục tiêu, trong việc đi đến điểm cuối nơi nó sẽ như thể chưa bao giờ đạt được mục tiêu, chính là cái làm cho nó hoàn toàn khả hữu. Nó giữ lại một chút ý nghĩa bởi sự thật là nó không bao giờ nhận được toàn bộ ý nghĩa của mình, và nó thống khổ vì không thể là thống khổ thuần túy. Kiệt tác vô danh luôn để lộ ra ở một góc đầu một bàn chân quyến rũ, và cái bàn chân ngon lành đó ngăn cản tác phẩm hoàn thành, nhưng nó cũng ngăn cản họa sĩ nói, với cảm giác yên tĩnh lớn nhất, trước sự hư vô hiện trên tấm toan của mình: “Không có gì, không có gì! Sau rốt, chẳng có gì!”