Văn chương của trẻ em – Paul Hazard (Phần 1)
Giới thiệu của Văn+: Sử gia Paul Hazard – người ở nửa đầu thế kỷ XX viết những quyển lịch sử tư tưởng đồ sộ – có một quyển sách về văn học thiếu nhi, cuốn sách tên “Los libros, Los niños y los Hombres” (Sách, trẻ em và con người) bằng phong cách trình bày lôi cuốn và giàu chất văn của ông. Có lẽ cũng như văn chương người lớn, có rất ít văn học thiếu nhi đích thực, và có đến phân nửa số sách được gọi là văn học thiếu nhi kinh điển, thực ra ban đầu lại không được sáng tác cho thiếu nhi. Vì thiếu nhi là những độc giả kiểu khác, chúng chiếm lấy quyển sách, chúng cho phép và quyết định cái gì sẽ là văn học thiếu nhi, chứ không phải tác giả. Trẻ em đã lấy được của chúng ta Jonathan Swift và “Gouliver du ký” – người lẽ ra đã phải làm chúng sợ. Swift có những tác phẩm rất đáng sợ. Robinson Crusoe của Daniel Defoe, một cuốn tiểu thuyết cho người lớn về tội lỗi, cứu rỗi và óc thực dụng của nhà buôn, đã ĐƯỢC trẻ em “lọc” bỏ hết những bài giảng khô khan và những suy tư thần học nặng nề. Chúng chỉ giữ lại phần cốt lõi: cuộc phiêu lưu, lòng dũng cảm, sự tự lực và niềm vui sướng nguyên thủy
Trẻ em hiểu được nhiều thứ mà người lớn không còn hiểu được, trẻ em biết đến người khổng lồ vì chúng là người khổng lồ với bông hoa trong vườn và con mèo trong nhà, nhưng là người tí hon với cha mẹ. Trẻ em dễ dàng biến các phát minh của chúng ta thành đồ chơi.
Cuộc khủng hoảng Thế kỷ XVII với nhân vật trung tâm là vua Louis XIV – người bãi bỏ sắc lệnh Nantes và xua người tin lành đi tản cư khắp thế giới, đã tạo ra Charles Perrault – được ghi nhận như một trong những tác giả văn chương thiếu nhi đầu tiên, người đã viết cho chúng ta Mèo Đi Hia, Cô bé khăng choàng đỏ (bản dịch mới đây dịch như vậy, và Mèo đi Ghệt).
Vào thế kỷ XVIII, Madame Leprince de Beaumont là tác giả đại diện cho văn học thiếu nhi: bà viết (đúng hơn là phóng tác) “Người đẹp và quái vật”, nhưng đồng thời cũng là một trong những người đầu tiên đưa bài học đạo đức / khoa học vào trong các chuyện. Truyện thiếu nhi từ thời điểm đó trở thành vỏ bọc cho việc học.
Sắp xếp các tác phẩm, tác giả theo trình tự thời gian, Paul Hazard tiếp tục đi vào một khác biệt khó thấy: người miền Bắc của Châu Âu (tính từ Anh) viết truyện thiếu nhi giỏi hơn người Pháp và Latin. Ở các nước Latin, trẻ em không gì khác hơn là những ứng cử viên nhỏ tuổi cho nghề làm người.
Văn+ xin giới thiệu tác phẩm ngắn nhưng vô cùng đáng ngưỡng mộ này của Paul Hazard, qua bản dịch từ tiếng Tây Ban Nha
—-
Giới thiệu của đơn vị xuất bản: Một lịch sử trọn vẹn, được tư liệu hóa vững chắc và viết một cách đầy thú vị, về văn học thiếu nhi của mọi thời đại.
Sự chuẩn bị công phu của cuốn sách này được phản ánh trong thư mục tham khảo sâu rộng làm phong phú thêm cho nó; nhưng nó đặc biệt có giá trị bởi sự diễn giải sâu sắc về các tâm lý quốc gia đa dạng và về các xu hướng cùng những tác giả đã góp phần vào kho tàng sách dành cho trẻ em.
Theo luận đề của Paul Hazard, trong một thời gian dài, người lớn đã vô ích khi cố gắng áp đặt sở thích của mình lên công chúng nhỏ tuổi; mặt khác, trẻ em đã biến thành của riêng mình những tác phẩm mà, dường như, lẽ ra ít hấp dẫn chúng, bởi chúng được viết cho người lớn.
Một phân tích phê bình về những cuốn sách vĩ đại của thể loại này và các tác giả của chúng – Defoe, Swift, Perrault, Andersen, Lewis Carroll, v.v. – cho phép tác giả xác nhận một trong những quan sát cơ bản khác của mình về văn học thiếu nhi: sự vượt trội của các quốc gia phương Bắc so với các quốc gia phương Nam.
QUYỂN MỘT: Người lớn đã áp bức trẻ em như thế nào trong thời gian dài [LIBRO PRIMERO: De cómo los hombres han oprimido largo tiempo a los niños]
I
Khi đến tuổi trưởng thành, con người ta trông chẳng mấy ưa nhìn: chỉ cần họ không còn tự ngắm mình và chiếc mặt nạ rơi xuống, ta thấy khuôn mặt họ đột nhiên già đi mười tuổi, ta nhận ra những nếp nhăn, làn da đất, đôi mắt sốt sắng và mệt mỏi. Nước hoa Ả Rập cũng chẳng làm gì được để trẻ hóa làn da đã vàng vọt lắm vết mồi kia. Cổ trở nên xấu xí, gầy guộc hoặc sưng bướu. Thân mình có xu hướng còng xuống và đôi chân trở nên cứng nhắc. Thiên nhiên tàn nhẫn cho họ hiểu rằng Ngài không còn cần họ nữa: thời của họ đã qua, họ có thể ra đi được rồi.
Hiếm khi tâm hồn được bảo tồn tốt hơn thể xác. Nó đã mất đi nét tươi mới, vì nó như tấm phim mòn đã thâu nhận quá nhiều hình ảnh. Mỗi khi trí tưởng muốn bay lên, nó lại bị tổn thương, từ bấy nó không còn dám nữa. Lý trí đã mạnh mẽ hơn, nhưng ai biết được? Có lẽ nó đã trở nên chai cứng. Người lớn không có tự do: họ là tù nhân của chính mình. Ngay cả trong trò chơi, họ cũng tỏ ra vụ lợi; họ chơi để giải trí, để quên đi, để không nghĩ về khoảng thời gian ít ỏi còn lại. Chẳng bao giờ vì niềm vui thuần túy của trò chơi.
Vương quốc tuổi thơ đã xa biết bao nhiêu! Những sinh linh sống ở đó dường như thuộc một loài khác. Có một sự sống dồi dào kỳ lạ ở những con người không biết mệt mỏi này: từ sáng đến tối, chúng chạy, la hét, đánh nhau, rồi lại làm bạn, nhảy nhót khắp nơi. Cuối cùng chúng ngủ thiếp đi vì quá mệt, nhưng chúng sẽ lại bắt đầu ngay khi bình minh. Cơ thể chúng, yếu ớt và vụng về, đã là một niềm hy vọng mãnh liệt. Sự giàu có của chúng nằm ở những gì chúng không có, ở những điều kỳ diệu của cái khả thể. Tưởng tượng không chỉ là niềm vui đầu tiên của chúng: đó là dấu hiệu của tự do, là động lực sống còn của chúng. Lý trí chưa hãm chúng, chỉ sau này nó mới cho chúng thấy sự hạn hẹp trong tầm nhìn của mình. Chúng phóng những giấc mơ lên mây, và không lo lắng, không quan tâm đến sự hữu ích, không có gánh nặng nào trong tâm hồn, chúng chơi trong niềm hạnh phúc trong trẻo nhất.
Nhưng không có trí tưởng tượng nào tự nuôi sống chính nó, và tinh thần của trẻ em cũng đòi hỏi thức ăn của nó, vì chúng không chỉ sống bằng bánh mì. Chúng bèn tìm đến những người cho chúng mọi thứ: nhà cửa, quần áo và tình yêu, đến những quyền lực nhân từ, mà, trong vở kịch của Vũ trụ – những đứa trẻ nhìn thấy như vậy, che chở chúng khỏi bóng tối, màn đêm và chó sói. Chúng cầu xin từ họ những hình ảnh đầu tiên, mà sau này, quả thật, chúng sẽ làm biến dạng; chúng sẽ phá vỡ để tạo ra những hình ảnh mới hơn và đẹp hơn. Và chúng muốn có thật nhiều, vì chúng rất đòi hỏi, và ngay khi người ta vừa kể xong một câu chuyện, chúng đã đòi thêm… Ngay khi biết đọc, chúng mong đợi những điều kỳ diệu từ những ký tự đen nhỏ bé kia, những ký tự sống dậy trước mắt chúng. Những cuốn sách đẹp: thật là một niềm vui! Lãnh địa của chúng sẽ được mở rộng biết bao! Chúng sẽ cảm thấy như vẫn đang chơi, nhưng là những trò chơi rộng lớn hơn! Chúng sẽ không còn phải nhờ mẹ lục lọi trong ký ức, kể lại những câu chuyện thời thơ ấu của mẹ: cũng như mẹ chúng ngày xưa đã nhờ bà ngoại. Không cần sự giúp đỡ của ai, chỉ cần lật giở những cuốn sách, chúng sẽ làm hiện ra những câu chuyện hay nhất… Và đây là nơi bắt đầu câu chuyện về một sai lầm đã kéo dài.
Bởi vì người lớn (ngoại trừ một vài kẻ được trời phú, một nhóm nhỏ những kẻ điên và thi sĩ, những người được các vị thần cho phép hiểu ngôn ngữ của trẻ nhỏ, như các nàng tiên hiểu ngôn ngữ của loài chim) trong một thời gian dài đã đáp lại lời cầu xin của trẻ em một cách sai quấy. Tự cho mình đẹp đẽ, những người lớn đã dâng cho đứa trẻ những cuốn sách đại diện cho người lớn với những thuộc tính hỗn tạp của nó, với óc thực tế, khoa học, đạo đức giả và sự máy móc. Họ đã trao cho trẻ những cuốn sách bốc lên mùi nhàm, có khả năng biến lẽ phải thành một thứ vĩnh viễn đáng ghét; những cuốn sách ngớ ngẩn rỗng tuếch, khoa trương nặng nề; làm liệt đi những thôi thúc tự phát của tâm hồn; những tác phẩm vô lý, hàng tá đến hàng trăm, đổ xuống như mưa đá lập xuân. Càng sớm dập tắt tuổi trẻ của trái tim, càng nhanh chóng xóa đi khỏi tinh thần cảm thức về tự do và niềm vui chơi đùa, và áp đặt các giới hạn, quy tắc và sự kìm hãm, người lớn càng cảm thấy hài lòng về bản thân, bởi vì, không chậm trễ, họ đã nâng tuổi thơ lên đến sự hoàn hảo tối cao của người lớn.
Tình hình ngày xưa còn ngột ngạt hơn: con người còn chìm đắm hơn trong định kiến của mình, cảm thấy chắc chắn hơn về việc sở hữu chân lý, không một chút nghi ngờ, họ cứng rắn và độc đoán hơn. Họ không làm vậy vì ác ý, mà vì ngu ngốc; vì thiếu tầm nhìn và sự linh hoạt, vì tin rằng mình sở hữu một trí tuệ siêu việt đã thấu tỏ mọi bí ẩn của cuộc sống và sẽ cảm thấy bị hạ thấp nếu lắng nghe bài học của tuổi thơ. Điều này chủ yếu là do thân phận buồn bã của con người, gây khó khăn cho việc nắm bắt những tiếng gọi của chúng ta và khiến chúng ta không bao giờ hiểu nhau hoàn toàn và lịch sử mối quan hệ của chúng ta với những người ta yêu thương không gì khác hơn là một sai lầm, một chuỗi những nhịp lạc, những thiện chí đi chệch hướng và không thể gặp nhau. Trong đó không có ác ý; nhưng sự thật là, khi nghe tuổi thơ cầu xin sự giúp đỡ, người lớn từ chối cho nó những gì nó cần và trao cho nó những gì nó ghét. Thay vì những câu chuyện soi sáng tâm hồn nó bằng ánh nắng mặt trời, họ không ngần ngại trao cho nó một cuốn sách dày cộp về trí tuệ đặc quánh và khó tiêu, hoặc một luận thuyết về đạo đức độc đoán, phải được áp đặt từ bên ngoài, không có sự gắn bó sâu sắc từ bên trong. Ta tưởng như nghe thấy những giọng nói lạc điệu: trẻ em và người lớn nói chuyện với nhau, nhưng không thể hiểu nhau.
“Hãy cho chúng tôi sách – trẻ em nói – hãy cho chúng tôi đôi cánh. Vì các vị mạnh mẽ và quyền năng, hãy giúp chúng tôi thoát đến nơi xa xôi. Hãy xây cho chúng tôi những cung điện màu xanh biếc, giữa những khu vườn mê hoặc; hãy cho chúng tôi thấy các nàng tiên dạo chơi dưới ánh trăng. Chúng tôi không từ chối học những gì người ta dạy ở trường, nhưng, lạy Chúa, đừng lấy đi kho báu của những giấc mơ của chúng tôi.”
“Con cái chúng ta đã biết đọc và đã lớn rồi – người lớn thì nói -; chúng đã đòi chúng ta sách: vậy hãy tận dụng sự ham muốn và tò mò của chúng. Hãy giả vờ xây dựng những lâu đài ma thuật làm chúng mê mẩn, nhưng theo cách của chúng ta, vì trí tuệ đích thực là di sản của chúng ta. Trong cung điện của chúng, chúng ta sẽ đặt những phòng học, được ngụy trang rất khéo; trong vườn của chúng, chúng ta sẽ trồng rau, mà trẻ em sẽ tưởng là hoa. Ở những khúc quanh của đại lộ sẽ xuất hiện trật tự, sự thận trọng và Lịch sử Tự nhiên, cùng với Vật lý và Hóa học; giả vờ đi theo dòng chảy của những câu chuyện cổ tích, chúng ta sẽ kể cho chúng những câu chuyện khoa học. Vì chúng ngây thơ, chúng sẽ khó mà nhận ra; và tưởng rằng đang vui chơi, từ sáng đến tối, chúng sẽ thực sự học được những điều hữu ích.”

Minh hoạ trong sách
Họ muốn xóa bỏ thời đoạn ngọt ngào những năm tháng sống mà không phải kéo lê gánh đời: những năm tháng phung phí mà trong đó không chỉ con người chúng ta được hình thành, mà còn nhận trước phần hạnh phúc tốt đẹp nhất của mình. Họ phá hủy những cảnh quan tuổi thơ mà những người khổng lồ sải bước qua, trong khi những người lùn nép mình sau những rễ cây khổng lồ; những cảnh quan nơi dòng sông đột nhiên bắt đầu trò chuyện với những cánh đồng mà nước nó tắm mát, những bầu trời hé mở để một đàn tiên bay ra. Họ muốn khai thác những khu rừng, chiếm lấy những con suối và xây dựng ngay lập tức những nhà máy lớn. Và họ thậm chí còn gian lận. Họ thông báo rằng sẽ cùng đứa trẻ đi dạo trên đồng cỏ: nhưng điều họ dự định là dạy nó nghệ thuật đo đạc đất đai. Họ nói rằng sẽ đưa nó đến nhà chú Luis, nơi nó sẽ gặp những người bạn cùng tuổi và một bữa ăn nhẹ ngon lành; và hóa ra chú Luis là một người đam mê Vật lý và, một cách lén lút, bắt đầu một khóa học về điện hoặc các định luật của Newton. Họ không chỉ cướp đi của trí tưởng tượng vị trí xứng đáng của nó và tuyên chiến với giấc mơ. Họ còn muốn những đứa trẻ nhỏ phải lặp đi lặp lại: “Tôi học những điều hữu ích, nhưng không ra vẻ như vậy; tôi dành những giờ giải lao ngọt ngào của mình cho việc học, nhưng không nhận ra; người ta cho tôi điều ngược lại với những gì tôi yêu cầu, nhưng nếu có ai nhận ra, đó chắc chắn không phải là tôi; nếu tôi ngáp, đó là vì tôi thích thú; nếu tôi chán, đó là vì quá vui…”
II
Trong các bảo tàng, trong những bức tranh cũ, người ta thấy chân dung của các bé gái: đôi giày búp bê chật hẹp, váy nhung cứng cáp, eo bị siết trong áo nịt ngực, cổ bị thắt chặt trong những dải ruy băng và chiếc mũ có lông vũ đè bẹp đầu họ. Và vòng cổ, nhẫn, vòng tay, trâm cài… Chúng hẳn đã phải chịu đựng biết bao! Chúng ta muốn giải thoát cho chúng, cho chúng những bộ quần áo mềm mại và nhẹ nhàng, phù hợp với cơ thể non nớt; cũng như chúng ta muốn giải thoát cho những cậu bé bị nhốt trong áo giáp, quấn trong dây đai và chìm trong đôi ủng, những người, bất chấp thái độ anh hùng, trông thật lố bịch và bất hạnh. Nếu trong nhiều thế kỷ người ta thậm chí không nghĩ đến việc cung cấp cho trẻ em những bộ quần áo phù hợp, làm sao người ta có thể nghĩ đến việc mang lại cho chúng những cuốn sách hay?
Điều này có thể giải thích được trong thời đại của các bản thảo chép tay, vốn khác xa với đồ chơi, hoặc trong thời kỳ mà chính việc đọc sách là đặc quyền của giới tu sĩ. Nhưng khi máy in được phát minh và ảnh hưởng của thời Phục Hưng lan rộng, người ta đã làm gì cho trẻ nhỏ? Hầu như không có gì. Họ chỉ bằng lòng với việc để rơi một vài mẩu vụn từ những bàn ăn cao sang: sách đạo, sách lễ nghi. Nếu điều đó không làm chúng hài lòng, thì càng tệ; tiếng nói của chúng không thể được lắng nghe. Chúng có thể xin những câu chuyện từ các vú em, các cô hầu gái, những người trong bếp, đám đông, nhưng những câu chuyện in ra là dành cho người lớn, không phải cho trẻ em. Máy in không được phát minh ra cho trẻ nhỏ: cùng lắm nó sẽ lặp lại cho chúng Kinh thánh, mười điều răn hoặc bảng chữ cái. Nếu chúng thực sự muốn giải trí, chúng chỉ cần tìm đến các tác giả Latinh: Ovid, trong đó chúng sẽ tìm thấy, ít nhất, một vài phép biến hóa; Virgil và Statius. Lập luận rất dứt khoát: các tác giả Latin nhất định phải làm hài lòng trẻ nhỏ, vì họ đã làm người lớn vui thích.
Vào thời điểm nào người ta nghĩ rằng chúng có thể khao khát những bài đọc khác ngoài những bài đọc ở trường, những tác phẩm khác, ngoài sách giáo lý và ngữ pháp? Nhà cách mạng nào đã nhận ra sự tồn tại của trẻ nhỏ và dám tôn vinh nó? Nhà quan sát tinh tường nào, khi hạ tầm mắt, đã thấy xung quanh mình những đứa trẻ? Người hảo tâm nào đã mang lại cho chúng niềm vui, được nhân lên đến vô tận, khi cuối cùng sở hữu một cuốn sách thực sự là của riêng mình?
Sự kiện này đã diễn ra một cách huy hoàng ở Pháp, nhưng không phải không có sự chuẩn bị hay chăm chút. Cần có sự góp sức của nhiều thế kỷ, trong bóng tối, đã dệt đi dệt lại trăm lần tấm vải của những câu chuyện này.
Cần phải có thế kỷ của Louis XIV [Tức Thế kỷ 17], mệt mỏi với giọng điệu anh hùng và ngay cả với chủ nghĩa cổ điển, đã quay sang điều kỳ diệu, với mong muốn thay đổi. Cần có sự góp sức của phụ nữ (những người luôn tỏ ra đam mê hơn trong mọi việc) để in những câu chuyện này, sau khi đã kể chúng cho bạn bè của họ: Madame d’Aulnoy, Mademoiselle Lhéritier, Mademoiselle Bernard. Sau đó, cần có sự can thiệp của một viện sĩ, người thích nhúng tay vào mọi việc, một người ưa nghịch lý và tai tiếng, người đã dám làm thơ về La paciencia de Griselda (Sự kiên nhẫn của Griselda), Los anhelos ridículos (Những ước ao lố bịch) và Piel de Asno (Da lừa): không phải không một lần nữa khơi dậy cơn thịnh nộ của Boileau, người đã khinh miệt nhắc đến “câu chuyện Da lừa và Người đàn bà mũi xúc xích, được ông Perrault của Viện Hàn lâm Pháp làm thơ”. Cần phải có việc Charles Perrault từ bỏ thơ để chuyển sang văn xuôi, ngập ngừng, có chút xấu hổ, và ẩn mình sau tên con trai mình, Pierre Darmancourt. Bởi vì một viện sĩ, nếu thích, có thể sáng tác những bài thơ trào phúng; có thể thích các tác giả hiện đại hơn các tác giả cổ đại và gây ra những cơn bão lớn; nhưng điều chưa từng có là ông dám xuất bản những câu chuyện dành cho trẻ em.
Nhưng mà ông đã dám. Năm 1697, ông đã cho Barbin xuất bản Historias o Cuentos de antaño, con moraleja (Những câu chuyện hay Truyện cổ tích ngày xửa ngày xưa, có kèm lời răn). Thế là Mẹ Ngỗng rời bỏ những ngôi làng và trang trại nhỏ và đi lại vênh váo trên các đường phố Paris; lần đầu tiên, trẻ em Pháp, và sau đó là trẻ em trên toàn thế giới, đã sở hữu một cuốn sách như chúng hằng mơ ước, đẹp và tươi mới đến nỗi chúng không bao giờ muốn rời bỏ nó nữa. Chúng sẽ không bao giờ quên Cô bé quàng khăn đỏ, người bị con sói ăn thịt một cách xảo quyệt. Chúng sẽ không bao giờ quên Chú bé tí hon, cũng như những cảm xúc đã khuấy động tâm hồn chúng, vào một thời điểm trong đời khi những tình cảm rung động với sức mạnh còn nguyên vẹn của chúng. Trước hết, là lòng trắc ẩn. A, những người tiều phu nghèo khổ không thể nuôi sống con cái, dù làm việc vất vả đến đâu, và buộc phải bỏ rơi chúng. Và sau đó là hãi: những đứa trẻ tội nghiệp lạc trong rừng, không có gì để ăn; màn đêm buông xuống và gió rên rỉ, hú lên giữa những cành cây. Và những lúc xen kẽ giữa lo lắng và hy vọng: chúng lại trú ẩn đúng trong nhà của một con Yêu tinh; vợ nó muốn cứu chúng, nhưng con Yêu tinh, đói khát, ngửi thấy mùi thịt tươi và quyết định cắt cổ những đứa trẻ; và thế là Chú bé tí hon lanh lợi đã sắp đặt mọi việc khéo léo đến nỗi lừa được con Yêu tinh, và nó đã cắt cổ chính những đứa con của mình. Và cả sự kinh hoàng: con Yêu tinh mài con dao khổng lồ, xỏ đôi ủng bảy dặm, bắt đầu chạy, vượt qua sông và rừng và lại ngủ thiếp đi và ngáy vang trời ngay trên hang động nơi những người chạy trốn đang nghỉ ngơi. Và niềm vui: thật là một sự hân hoan, của người vợ tiều phu, khi tìm lại được những đứa con nhỏ của mình! Chúng đáp lại nụ hôn của bà bằng những nụ hôn! Theo thời gian, những độc giả của Chú bé tí hon sẽ chứng kiến nhiều cảnh tượng; họ sẽ thấy chúng trên sân khấu và trong chính cuộc sống, nhưng họ sẽ không bao giờ chứng kiến một cảnh tượng nào khác làm tim họ đập mạnh hơn. Dù họ có được chiêm ngưỡng những cảnh đẹp nhất thế giới, họ cũng sẽ không bao giờ thấy điều gì gây ấn tượng mạnh mẽ với họ như “mặt trời rắc bụi vàng lên đồng cỏ xanh”, khi Anne, nàng Anne xinh đẹp, lo lắng nhìn ra chân trời, cuối cùng thấy hai người anh trai xuất hiện, phi nước đại đến để giải thoát cho nàng Fatima bất hạnh; hai người anh trai Dũng cảm, một người là lính ngự lâm và người kia là lính long kỵ: một người là Sự Cứu rỗi và người kia là Sự Sống.
Và những tiếng cười ngọt ngào làm sao! Thật là khôn ngoan, thật là vui nhộn, con Mèo Đi Hia kia, kẻ bằng cách tâng bốc sự giàu có của chủ mình, cuối cùng đã cưới được con gái của Vua cho anh ta! Nó tận dụng mọi thứ: một lần tắm, một cuộc dạo chơi, một chuyến thăm đơn giản. Trẻ em sẽ không bao giờ quên nó, như chúng đã thấy, chạy qua vùng điền dã với tất cả sự vội vã mà đôi chân nhỏ bé của nó có thể, đi trong đôi ủng, và đe dọa những người nông dân rằng sẽ cho cắt cổ họ nếu họ không nói rằng những vườn nho, những cánh đồng lúa mì và những đồng cỏ thuộc về ngài hầu tước de Carabás, chủ của nó; chúng sẽ không bao giờ quên nó trong khoảnh khắc bước vào, không chút sợ hãi, cung điện của Yêu tinh, để yêu cầu nó biến thành một con chuột; và Yêu tinh, ngớ ngẩn và kiêu ngạo, đã tuân theo: trong nháy mắt, Mèo Đi Hia đã lao vào nó và ăn thịt nó. Tiếng cười mà cảnh tượng đó mang lại cho chúng ta sẽ kéo dài suốt đời.
Perrault tươi mát và trong trẻo như buổi bình minh; người ta luôn khám phá ra ở ông những nét duyên dáng mới. Ông sở hữu cái tinh tế hài hước và một vẻ duyên dáng dễ dàng, bay bổng; ông không bao giờ cho ta cảm giác phải nỗ lực, phải nâng một vật nặng, phải tìm kiếm sự tán thưởng của công chúng. Dường như ông là người vui vẻ nhất và kể những câu chuyện kỳ diệu đó chỉ để cho vui. Thỉnh thoảng ông xuất hiện, nói một lời, bắt đầu một cuộc đối thoại; nhưng rồi ông lại nhanh chóng giấu đầu đi, biết rằng, trong tất cả các khuyết điểm, phiền toái nhất là sự tọc mạch. Các nhân vật của ông tự hành động; ông chỉ ở đó để cho họ làm những gì họ muốn và ghi lại những gì họ nói, từng lời một. Và một ngôn ngữ trong sáng và rõ ràng làm sao! Và sự giản dị đó, “phẩm chất duy nhất mà người ta không bao giờ mệt mỏi ca ngợi”, như Sainte-Beuve nói, phẩm chất duy nhất có khả năng lay động mọi tâm hồn…
III
Bắt đầu bằng một kiệt tác là quá nhiều; vòng nguyệt quế bị hạ xuống, bữa tiệc không kéo dài mãi. Bởi vì chẳng bao lâu sau, các nàng tiên bị coi là kẻ thù. Họ chỉ trị vì trong một khoảnh khắc, một khoảnh rất ngắn; họ chỉ có thể tận hưởng khoảng thời gian nghỉ ngơi giữa một thế kỷ uy nghiêm, đang mất dần quyền lực, và một thế kỷ của tinh thần phê phán, chưa được củng cố trong quyền lực của mình. Trí tuệ, lý trí đã trở thành mốt, làm sao các nàng tiên có thể chống lại những thế lực không muốn chia sẻ quyền cai trị của mình với bất kỳ ai? Làm sao họ có thể không ẩn mình đi, để thoát khỏi ánh sáng [Ẩn ý nói về Thế kỷ XVIII – Khai sáng]? Những ánh sáng đó phải soi sáng toàn bộ Vũ trụ, và các nàng tiên đã phải vất vả lắm mới tìm được một nơi ẩn náu để chờ đợi thời gian tốt đẹp hơn. Ý tưởng vô lý rằng một tác giả vĩ đại có thể viết những thứ cho trẻ em đã sớm bị xóa bỏ và người ta nảy ra ý định rằng nên sử dụng niềm vui tưởng tượng cho việc giáo dục. Nhưng rồi việc giáo dục lại tin rằng mình có nhiệm vụ phải bóp nghẹt ngay lập tức niềm vui. Và những gì được dâng cho trẻ em là những liều thuốc, chỉ với một chút mật ong.
Madame Leprince de Beaumont là một “cô giáo khó tính”, như bà tự gọi mình. Gặp phải những nỗi buồn trong hôn nhân, bà đã cống hiến mình cho giáo dục. Bà vượt qua eo biển Manche và làm giáo viên ở Anh; và trong số bảy mươi tập sách ra đời từ ngòi bút không mệt mỏi của mình, bà đã xuất bản, vào năm 1757, một cuốn Almacén de los niños (Kho tàng của trẻ em) đã làm nên một thời kỳ. Tên sách nhìn có khiếp không:
Almacén de los niños; o diálogos de una prudente institutriz con sus distinguidos alumnos, en los que se hace pensar; hablar y actuar a los jovencitos según el genio, el temperamento y las inclinaciones de cada cual. Represéntanse los defectos propios de su edad y muéstrase el modo de corregirlos; aplícase el autor tanto a formar el corazón como a ilustrar el espíritu. Contiene un resumen de Historia Sagrada, de Mitología, de Geografía, etcétera…, con multitud de reflexiones útiles y Cuentos morales para proporcionarles delicado solaz; todo ello escrito en un estilo sencillo y adecuado a la ternura de sus almas, por Madame Leprince de Beaumont. (Kho tàng của trẻ em; hay những cuộc đối thoại của một cô giáo thận trọng với các học trò ưu tú của mình, trong đó các em nhỏ được khuyến khích suy nghĩ, nói và hành động theo tài năng, tính khí và khuynh hướng của mỗi em. Các khuyết điểm đặc trưng của lứa tuổi được trình bày và cách uốn nắn chúng; tác giả chú trọng đến việc hình thành trái tim cũng như soi sáng tinh thần. Sách chứa đựng một bản tóm tắt Lịch sử Thánh, Thần thoại, Địa lý, v.v…, với vô số suy ngẫm hữu ích và những Câu chuyện đạo đức để mang lại cho các em niềm vui tinh tế; tất cả được viết bằng một phong cách đơn giản và phù hợp với sự non nớt của tâm hồn các em, bởi Madame Leprince de Beaumont.)
Vậy là, trí tưởng tượng và sự nhạy cảm sẽ không còn được coi là những giá trị tự thân, mà là những phương tiện được một cô giáo thận trọng sử dụng để các học trò của mình dễ dàng nuốt trôi những điều của Khoa học hơn; thời điểm khủng khiếp đang đến gần khi người ta sẽ ra lệnh rằng trẻ em không được lãng phí một phút nào và, ngay cả trong những giờ giải lao, chúng cũng phải chuyên tâm để trở thành những ông cụ non càng sớm càng tốt.
Nói thật, Madame de Beaumont vẫn còn hơi do dự, vì trong trái tim bà, không chỉ có thơ ca, mà còn có cả sự dịu dàng của con người. “Không phải tất cả những người viết truyện cổ tích đều nhất thiết là những kẻ nói dối – bà nói, cố nặn những tình tiết giảm nhẹ cho mình – vì, trên thực tế, họ không có ý định lừa dối ai cả.” Và khi nói điều này, bà đã tự bào chữa cho mình, vì chính bà cũng kể một vài câu chuyện rất hay; và vì đã viết La Bella y el Monstruo (Người đẹp và Quái vật), bà sẽ được tha thứ rất nhiều. Lại hiện về trong ký ức, câu chuyện đẹp đẽ của ngày xưa, một câu chuyện trong sáng và sâu sắc! Bạn có nhớ Người Đẹp đã bị các chị em của mình đối xử tệ bạc như thế nào không, không chỉ vì cô là người đẹp nhất, mà còn vì lòng tốt của cô? Bạn có nhớ Quái vật, yêu thương và dịu dàng, nhưng lại xấu xí đến mức không tin rằng sẽ tìm được người phụ nữ nào đáp lại tình yêu của mình? Khi Người Đẹp đến cung điện của Quái vật, cô được đối đãi còn hơn cả một nữ hoàng; cô vừa hé lộ một mong muốn, nó đã được thỏa mãn; cô được phục vụ những món ăn tinh tế trên bộ đồ ăn bằng vàng; tai cô được thưởng thức một bản nhạc thần tiên; những bông hồng trong khu vườn chào đón cô có mùi thơm gần như ngon lành như những bông hồng trong Thiên đường. Nhưng mỗi khi Quái vật xuất hiện trước mặt cô, hy vọng rằng với những sự tinh tế và chiều chuộng đó có lẽ sẽ giành được tình yêu của Người Đẹp, cô lại cảm thấy kinh hoàng trước sự xấu xí của nó, và chỉ có thể dành cho nó một tình bạn e dè. Và thế là Quái vật, nằm dài trên bãi cỏ, đã chết vì đau buồn, nếu lòng thương hại không làm nảy sinh tình yêu trong trái tim của thiếu nữ. Và ngay khi tình yêu nảy sinh, sự xấu xí tan biến.
“-Không, Quái vật của em, anh sẽ không chết – Người Đẹp nói – anh sẽ sống để làm chồng em; em xin dâng bàn tay em và từ nay em thề sẽ không thuộc về ai khác. Ôi!, Em đã tưởng đó chỉ là tình bạn mà anh đã gợi lên trong em; nhưng nỗi đau em cảm thấy mách bảo em rằng em không thể sống thiếu anh-. Ngay khi Người Đẹp vừa thốt ra những lời này, cô nhận thấy lâu đài rực rỡ ánh đèn, pháo hoa, âm nhạc ngọt ngào nhất: tất cả đều cho thấy một bữa tiệc lớn đang được tổ chức, nhưng không có sự quyến rũ nào trong số đó thu hút cô, và cô quay mắt về phía Quái vật yêu dấu của mình, mà sự nguy hiểm của nó làm cô lo lắng. Thật là một bất ngờ! Quái vật đã biến mất, và cô chỉ thấy dưới chân mình một Hoàng tử đẹp hơn cả tình yêu, người đang bày tỏ lòng biết ơn của mình vì cô đã phá vỡ lời nguyền đã cho anh một hình dạng khủng khiếp như vậy…”

Minh hoạ trong sách
Nhưng, đồng thời, Cô giáo Thận trọng cũng biết cách nói chuyện một cách khoa trương. “Những câu chuyện cổ tích – bà nói – nên truyền cho trẻ em tinh thần hình học.” Đó là một cụm từ mà bà lặp lại với niềm tự hào: “tinh thần hình học”; và cả: “đế chế của lý trí”. “Tất cả những gì nói với trẻ em, tất cả những gì viết cho chúng hoặc được trình bày trước mắt chúng, đều phải hướng đến mục tiêu đó và được một người thầy khéo léo” hoặc một Cô giáo Thận trọng “dẫn dắt một cách tài tình”. Ta tưởng như nghe thấy bà cao giọng và thấy bà biến cây đũa thần của các nàng tiên thành một cây roi. Bà đặt cho các nhân vật trong các cuộc đối thoại của mình những cái tên không còn chỗ cho sự nghi ngờ: Cô Tốt Bụng, cô giáo của Tiểu thư Khôn Ngoan; Tiểu thư Khôn Ngoan, mười hai tuổi; Tiểu thư Lanh Lợi, cũng mười hai tuổi; Tiểu thư Phù Phiếm, bảy tuổi; Tiểu thư Bão Tố, mười ba tuổi; và bà tạo cho các cuộc đối thoại một vẻ ngoài vui nhộn và tự nhiên, như trong đoạn này:
TIỂU THƯ LANH LỢI.
Nói một cách chính xác, các Nước Vùng Thấp là gì ạ?
CÔ TỐT BỤNG.
Đó là vùng đất nằm giữa Biển Bắc, Pháp và Đức; và chúng được gọi tên này vì chúng nằm cạnh biển và địa hình phần lớn là bằng phẳng, với một số vùng có độ cao thấp. Chúng được chia thành các Nước Vùng Thấp phía Bắc hay Tin lành và các Nước phía Nam hay Công giáo…
Đây là cách người ta giải trí cho trẻ em, chỉ cần có một chút tài tình. Tác giả này đã chia một cách khéo léo – ít nhất, bà ấy nghĩ vậy – Lịch sử và Thần thoại thành những chiếc bánh ngọt tinh tế; ngay cả với Lịch sử Thánh, bà cũng làm một sự pha trộn kỳ lạ, mà bà phân phát thành từng phần liên tiếp. Phần thú vị cứ giảm dần, giảm dần, cho đến khi biến mất hoàn toàn và liều lượng sư phạm tăng lên, cuối cùng xâm chiếm tất cả. Càng khoa trương, bà càng hài lòng về bản thân; cuối cùng, sự hài lòng của bà không còn giới hạn.
Thật vậy, đây là một câu chuyện buồn. Perrault, Madame d’Aulnoy và những người khác, là mùa xuân: những bông hoa sắp nở. Nhưng điều ngược lại đã xảy ra: người ta thấy khu vườn xinh đẹp mà chúng ta đã hứa hẹn, khu vườn xinh đẹp sớm tàn lụi, bị khô héo.
IV
Đã đến lúc Rousseau cất lên tiếng nói vĩ đại của mình, tiếng nói đã làm xáo trộn lương tâm và đặt lại mọi vấn đề: vấn đề nghệ thuật, chính trị, tình yêu. Muốn truyền cho con người một sức sống mới, cần phải bắt đầu từ nền tảng và bàn về giáo dục. Không phải ông quan tâm nhiều đến sách cho trẻ em, vì ông đã loại bỏ mọi cuốn sách khỏi Emilio [Bản dịch tiếng Việt là Emile hay về giáo dục] của mình, ngoại trừ Robinson ngoài đảo hoang. Nhưng ông đã đòi lại quyền của cái tự phát chống lại cái máy móc, của cái nguyên thủy chống lại cái nhân tạo; đó là cái được gọi là một cuộc cách mạng.
Sau khi lắng nghe ông một cách chăm chú và thấm nhuần những châm ngôn của ông, các nhà văn sau này nghĩ đến công chúng nhỏ tuổi đã làm hoàn toàn ngược lại với những gì Rousseau yêu cầu. Ngay khi họ cầm bút, họ không còn biết phân biệt cái tươi mới và nguyên thủy, sự tự phát mà họ ca ngợi; họ chỉ hành động bằng sự giả tạo và, với lý do giải phóng nó, họ lại càng đàn áp tâm hồn trẻ em hơn. Những nhà sư phạm này, những người tuyên bố chỉ làm việc ngoài trời, chỉ nói về lợi ích của mặt trời, của mưa và cả của gió, lại nhốt những cái cây của họ trong một nhà kính, ép buộc chúng, cắt tỉa chúng quá mức, uốn nắn chúng một cách khôn ngoan; họ trở nên độc đoán hơn cả Le Nôtre, người ít nhất cũng không khoe khoang rằng mình sao chép một cách máy móc Thiên nhiên.
Có lẽ là do Rousseau, thầy của họ, mỗi khi tiến ba bước, lại lùi ba bước, và, bù đắp cho mỗi cú bứt phá táo bạo bằng một cơn rụt rè, đã biến từ một nhà cách mạng thành một người bảo thủ; sau khi chủ trương một nền giáo dục không ràng buộc, ông lại đặt bên cạnh học trò một gia sư luôn đi cùng cậu, giám sát mọi hành động của cậu và, trong trường hợp cần thiết, thậm chí còn làm sai lệch những trải nghiệm lẽ ra phải hình thành cho cậu kiến thức về sự thật trần trụi.
Có lẽ cũng là vì ông Rousseau đã thiết lập thói quen nhìn nhận mọi việc một cách bi thảm và, sau ông, hầu như không có ai không trở nên bi lụy: Saint-Preux, Julia, đàn ông, phụ nữ và trẻ em. Tạm biệt sự giản dị và tự nhiên; tạm biệt sự vui vẻ và trò chơi; bây giờ điều quan trọng là phải nói chuyện hùng hồn hơn nhà hùng biện La Mã, thể hiện cảm xúc thay vì che giấu chúng trong sâu thẳm bản thân, suy nghĩ một cách nồng nhiệt. Vì mỗi thời đại thoáng qua đều có một dấu ấn riêng, mà nó tin là vĩnh cửu và vượt trội so với các thời đại đã qua, nên nó sẽ muốn áp đặt cả những khuyết điểm của mình lên những đứa trẻ, những đứa đang chờ đến lượt xuất hiện trên sân khấu của thế giới; tuy nhiên, nó làm điều đó với thiện chí tốt nhất, sẵn sàng đàn áp chúng để hữu ích cho chúng và mang lại cho chúng một niềm vui tinh tế.
Madame de Genlis, theo cách của bà, là một học trò của Rousseau; Madame de Genlis, người phụ nữ đầu tiên khoe khoang sở hữu một chiếc bàn viết. Trước đây, phụ nữ viết những nét chữ xinh đẹp của mình ở bất cứ đâu có thể; sau đó, họ viết trên bàn viết của mình, với sự trang trọng và uy nghi. Bà có một thân hình nhỏ bé, dưới đống trang sức, và một cái đầu nhỏ dưới bộ tóc giả phủ phấn. Bà hẳn đã muốn trông uy nghi hơn; ít nhất bà đã bù đắp bằng cách giành được quyền lực. Bất chấp vẻ bề ngoài, thực tế chỉ có hai đam mê chính thúc đẩy bà: thứ nhất là khao khát tỏa sáng, đóng một vai trò quan trọng trên thế giới. Tuổi thơ của bà không có gì bất hạnh. Cha bà là một trong những người có tầm nhìn rộng, một tầm nhìn rộng hơn túi tiền của ông; ông đã mua hết bất động sản này đến bất động sản khác, luôn vay tiền, đến nỗi ông đã dành cả cuộc đời để tìm tiền trả cho các trang trại của mình, và trong những chuyến đi của mình, ông đã đến tận Santo Domingo, mong muốn thử vận may. Ông bị người Anh bắt làm tù binh và sau đó được thả, nhưng khi trở về thì ông qua đời. Những người có quan niệm sống như vậy không làm phiền gia đình bằng cách ở nhà quá nhiều. Stéphane-Félicité du Crest – đó là tên của cô bé – đã có thể, theo ý thích của mình, đi dạo trong công viên của lâu đài Saint-Aubin-sur-Loire, vẫn chưa được trả tiền, trèo cây, làm rách váy trong bụi rậm, mặc sức bộc lộ sức sống mà cô cảm thấy trong mình. Nhưng mẹ cô thích cuộc sống xã hội, như những người sống ở nơi hẻo lánh của một tỉnh thường thích, hơn nhiều so với người sống ở Paris; bởi vì ở Paris người ta thích nó một cách hoài nghi, còn ở các tỉnh, với niềm tin. Con gái bà mới bảy tuổi và đã tỏa sáng trên sân khấu của một nhà hát riêng; từ đó cô đã là một ngôi sao không muốn thấy ánh hào quang của mình tắt lịm. Trong một buổi biểu diễn được tổ chức để vinh danh cha cô, khi ông trở về nhà sau một trong những chuyến đi của mình, cô đã đóng vai thần Cupid và đã giữ luôn trang phục đó; cô thường đi dạo trong bộ trang phục lụa hồng, với ống tên trên vai và đôi cánh xanh gắn sau lưng.
Bà tìm kiếm vận may ở Paris, cùng với mẹ; bà đã trở thành một “nghệ sĩ”. Bà là một trong những cô gái chơi đàn hạc trong các salon, những người được chiều chuộng và tâng bốc, và sau khi trả cho họ hai mươi lăm louis cho một buổi tối, người ta không còn nhìn đến họ nữa cho đến khi có dịp cho một chiến thắng mới. Nhưng bà muốn chiến thắng luôn luôn, không gián đoạn. Kết hôn với bá tước de Genlis, bà đã làm một nghìn điều kỳ quặc. Ban đêm, trong tu viện nơi bà ở, chờ chồng trở về (người đang phục vụ trong quân đội), bà bôi đỏ mặt những nữ tu tốt bụng; bà cải trang thành ma để dọa dân làng; bà mặc quần áo nam và cưỡi ngựa như vậy trên những con đường mòn và đường hoàng gia, bà sắm một bộ dụng cụ phẫu thuật và bắt đầu chích máu…
Đam mê khác của bà là sư phạm. Thời thơ ấu, bà không học được gì, vì người ta đã cho bà một vú em gần như dốt nát như bà; họ đã cùng nhau từ bỏ cuốn Cronología (Niên biểu) của Cha Buffier để chuyên tâm đọc Clélie và Teatro (Kịch) của Mademoiselle Barbier. Bà không biết gì, nhưng không tin rằng cần phải biết gì để làm giáo viên. Từ sân thượng của lâu đài, bà dạy học cho những đứa trẻ nông dân nhỏ, thu hút sự chú ý của chúng bằng lời hứa về bánh quy và những điều kỳ diệu khác; thật thú vị khi thấy bà đóng vai trò mới này, vừa là Sư phạm vừa là Tình yêu.
Khi công tước de Chartres bắt đầu mến bà, và bổ nhiệm bà làm gia sư cho các con gái của ông; khi ông giao phó cho bà việc giáo dục chính các con trai của mình, và bà không chỉ còn là gia sư, mà là “thống đốc” của những đứa con của hoàng tử, bà đã có niềm vui được thỏa mãn cùng lúc hai đam mê chính của mình. Người ta chế giễu bà, không cần phải nói; Paris và triều đình đã nhân lên những lời châm biếm cay độc, và bà không hề không biết điều đó. Nhưng ít nhất bà cũng cho thấy rằng bà rất nghiêm túc với chức năng của mình. Ngay từ năm 1779, bà đã xuất bản một cuốn Teatro para uso de los jóvenes (Kịch cho giới trẻ), chứa những vở hài kịch do bà sáng tác và được các con gái của bà là Carolina và Pulqueria biểu diễn. Năm 1782, mọi chuyện đã khác. Bà cho ra mắt một cuốn sách đồ sộ, Adela y Teodora o Cartas sobre la educación (Adela và Teodora hay những lá thư về giáo dục), đã đạt được, ôi!, thành công lớn nhất, không chỉ ở Pháp, mà trên toàn châu Âu.
Trẻ em nên đọc gì? Truyện cổ tích, như ngày xưa? Khồng! Trước hết, những câu chuyện đó không có tính đạo đức, và trong các vấn đề đạo đức, Madame de Genlis tỏ ra không khoan nhượng. Và ngay cả khi chúng có đạo đức, thì chính lời răn dạy cũng không phải là thứ thu hút trẻ em, những sinh vật vô lý, dám muốn vui chơi: chúng sẽ chỉ thấy trong những câu chuyện những khu vườn mê hoặc và những cung điện kim cương, như thể những dinh thự quý giá đó đã từng tồn tại… Trí tưởng tượng hão huyền của chúng sẽ chỉ mang lại cho chúng những ý tưởng sai lầm, làm chậm tiến trình trí tuệ của chúng và gây cho chúng sự chán ghét đối với những bài đọc thực sự có tính hướng dẫn. “Tôi sẽ không cho con mình đọc truyện cổ tích hay Las Mil y Una Noches (Nghìn lẻ một đêm); ngay cả những câu chuyện mà Madame d’Aulnoy viết cho trẻ em cũng không được khuyến khích.”
Tội nghiệp bọn trẻ! Madame de Genlis chiếm lấy và sẽ không bao giờ để chúng yên. Biện pháp đầu tiên, cả ngôi nhà sẽ được biến thành một phòng học. Phòng ăn sẽ được trang trí bằng những bức bích họa về Metamorfosis (Biến hình) của Ovid; người ta sẽ nói về Thần thoại, trong bữa trưa và bữa tối, mỗi ngày được Jupiter tạo ra. Phòng khách hình vuông sẽ được trang trí bằng Cronología de la Historia Romana (Niên biểu Lịch sử La Mã), được vẽ sơn dầu trên những tấm vải lớn; trên đó sẽ có những huy chương của các vị vua La Mã, của những anh hùng là niềm tự hào của nền Cộng hòa, của các Hoàng đế cho đến Constantine; các quý bà La Mã: Celia, Cornelia, Porcia, cũng như các Hoàng hậu, sẽ ở đối diện họ; hai tấm trần khác sẽ miêu tả những cảnh được chọn lọc và những tấm trần thấp của các cánh cửa cũng sẽ không bị bỏ qua: lịch sử La Mã thật là dày đặc! Và cứ thế với mọi thứ khác; hãy bỏ qua các phòng khác và cầu thang, nơi sẽ được giao phó cho các bản đồ. Mọi biểu hiện của cuộc sống sẽ tuân theo nguyên tắc tương tự. Các trò chơi sẽ được sắp xếp để thay thế cho một bài học; đèn chiếu ma thuật sẽ không còn chiếu hình ông Mặt Trời và bà Mặt Trăng, cô hầu gái uống trộm rượu vừa lấy từ thùng, hay cậu bé làm bánh mì giật đuôi quỷ, mà là bốn trăm hoặc năm trăm hình ảnh lấy cảm hứng từ Lịch sử, với lời bình luận phù hợp. Thay vì chơi bài, sẽ là các bài tập kiến trúc.
“Adela và Teodora, giống như mọi bé gái, đặc biệt thích chơi trò người lớn: đây, ít nhất, là một trò chơi đã trở thành một khóa học đạo đức thực sự.” Xin chúc mừng! Cuộc đi dạo sẽ dùng để làm gì, nếu không phải để đếm cây trong một đại lộ, những chậu hoa trên một sân thượng? Và con búp bê để làm gì, nếu không phải để lặp lại những bài học mà người mẹ đã dạy cho con gái mình?… Madame de Genlis tin rằng, để cứu vãn niềm vui mà trẻ em có thể trải nghiệm, chỉ cần không bao giờ phát âm từ học. Ngay khi chúng nghe thấy từ ngữ tai hại đó, mọi thứ đã mất hết: chúng đã phát hiện ra cái bẫy. Nhưng nếu tránh được tảng đá ngầm đó, thì từ bình minh đến hoàng hôn, một cuộc sống hoàn hảo như vậy sẽ là đối tượng của niềm vui vĩnh cửu.
thích ứng với các quy luật của Tự nhiên, không quên ngày tháng của các Hoàng đế La Mã hay những tấm bản đồ trang trí cầu thang.
“Không có sách đọc hay cho trẻ em”, Thống đốc phu nhân de Genlis tuyên bố: không có ở Anh cũng như ở Pháp. Ít nhất là đã không có, nhưng thời thế đã thay đổi; người Pháp cuối cùng sẽ sở hữu kho báu đó. Với nụ cười trên môi, bà trao cho họ cuốn Veladas del Castillo (Những buổi tối ở lâu đài), hai năm sau khi đã dâng tặng thế giới cuốn Adela y Teodora (Adela và Teodora). Ba tập và hai nghìn trang; quả thực, đó là một đòn giáng mạnh.
Nhan đề ấy cho phép chúng ta nuôi dưỡng một niềm hy vọng nhất định. Nó sẽ giống như một bức tranh khắc gỗ của ngày xưa: vào ban đêm, bên lò sưởi, tất cả mọi người trong nhà sẽ tụ tập; những người hầu sẽ được phép ngồi không xa chủ nhân của họ; một bà hầu gái già sẽ kể những câu chuyện của quá khứ… Nhưng để làm được điều đó, cần phải có một sự thay đổi đột ngột ở Madame de Genlis. Thực tế, chính bà là người kể những câu chuyện, dưới chiếc mặt nạ trong suốt của Nữ hầu tước de Clémire, người đã lui về một lâu đài ở Burgundy, cùng với César, con trai bà, và các con gái Carolina và Pulqueria; nếu chúng ngoan, bà sẽ lấy một bản thảo từ ngăn kéo bàn viết của mình và tặng chúng một buổi đọc sách. A! Thật là nhàm chán làm sao những buổi đọc sách đó, được cho là được chờ đợi với sự thiếu kiên nhẫn và được đón nhận như một món quà! Thật là vô đạo! Không chỉ vì những nhân vật mà họ đưa lên sân khấu không gì khác hơn là những con rối, mà còn bởi vì, thay vì đức hạnh, họ dạy những quy ước của thời trang; thay vì lòng bác ái, là sự giản dị giả tạo và niềm kiêu hãnh. Chỉ có những người giàu có và quyền lực mới quan trọng; không có đứa trẻ nào đáng được chúng ta quan tâm, nếu cha nó không phải là hầu tước hay bá tước, nếu nó không sở hữu một lâu đài, nếu nó không có một linh mục làm gia sư và không có nhiều người hầu phục vụ. Làm điều tốt là leo lên sân khấu và thực hiện một hành động hào phóng với sự trang trọng lớn lao, mà người ta biết là sẽ được biết ơn vô hạn. Con người bình đẳng, chắc chắn là vậy: đó là luật mà Thiên Công đã thiết lập. Nhưng Madame de Genlis đưa ra một sự dè dặt: cách một người được giáo dục đã tái lập sự bất bình đẳng trên thế giới; những người hầu, những người không được giáo dục, vẫn là những kẻ hèn mọn, không nên giao du. Những người duy nhất mà con trai của một gia đình tốt có thể giao du mà không bị hạ thấp là những người nông dân: họ có thói quen mời bánh mì và sữa cho những người chủ trẻ của mình, khi cuộc đi dạo đã làm họ đói; họ khiêm tốn và đỏ mặt vì xúc động nếu được ban cho vinh dự được nói chuyện; họ là những người rất đúng mực và không có chút tham vọng nào muốn rời bỏ vị trí của mình; họ là những vai phụ trong những câu chuyện tình lãng mạn nhạt nhẽo mà trong đó những vị chúa nhỏ hạ cố đóng vai chính.
Chiến tranh với trí tưởng tượng, trên hết! Bị truy đuổi, bị quấy rầy, làm sao nó có thể còn xuất hiện được nữa? Nhưng nó cố gắng, kẻ nổi loạn kia; nó tìm cách đòi lại vị trí của mình một cách rụt rè:
“Sau bữa ăn, bà de Clémire, người phải viết một lá thư, đã để bọn trẻ trong phòng khách, cùng với vị linh mục. Đó là giờ giải lao. Một phần tư giờ sau, bà de Clémire trở lại và thấy Carolina và Pulqueria đang đọc sách ở một góc phòng…
-Các con đang đọc gì vậy? – bà de Clémire hỏi.
-Một cuốn sách mà cô Justina cho chúng con mượn.
-Chà thế, cô Justina có đủ sáng suốt để định hướng việc đọc của các con không? Và hơn nữa, tại sao các con lại mượn sách mà không xin phép mẹ?
-Tôi cũng vừa nói với các cô bé như vậy – vị tu viện trưởng ngắt lời, người đang chơi cờ vua với Cha xứ ở đầu kia của căn phòng – nhưng các cô bé không muốn nghe tôi. Ít nhất thì cậu César tỏ ra hợp lý hơn; cậu ấy đang theo dõi ván cờ của chúng tôi và đọc tờ “Journal de Paris”…
-Được rồi – bà de Clémire tiếp tục, quay sang các con gái của mình – và các con đang đọc sách gì?
-Mẹ ơi… đó là… “Hoàng tử Percinet và Công chúa Graciosa”.
-A! Một câu chuyện cổ tích! Và làm sao các con có thể thích một thứ như vậy?
-Con biết là không tốt, mẹ ạ; nhưng con phải thú nhận rằng những câu chuyện cổ tích làm con vui.
-Và tại sao?
-Bởi vì con thích những điều kỳ diệu, những điều phi thường: những phép biến hóa đó, những cung điện bằng pha lê, vàng và bạc… Tất cả những điều đó con thấy thật đẹp…”
Các vị cứ việc rình mò đi: những đứa trẻ mẫu mực của các vị, ngay khi các vị quay lưng, chúng lại lao vào đọc một câu chuyện cổ tích do cô hầu gái cho mượn, và, đỏ mặt, cuối cùng chúng cũng thú nhận rằng chúng mê mẩn nó. Nhưng vì Madame de Genlis không phải là người cho phép chiến thắng của mình biến thành thất bại, bà sẽ cố gắng một nỗ lực cuối cùng. Nếu độc giả của bà bị thu hút bởi những điều phi thường, bà sẽ cho họ điều đó: bà sẽ kể cho họ câu chuyện về một nhà thám hiểm trẻ tuổi, đầy rẫy những điều kỳ diệu. Một quả cầu lửa xuất hiện trên không trung rồi chia thành hai cầu vồng; một tảng đá làm bất động những người đi qua nó, như thể họ đột nhiên mọc rễ; một trận mưa máu; một loại thuốc độc mạnh đến mức chỉ cần bôi một chút lên đầu kim, rồi châm vào một con bò đực, là thấy con thú ngã xuống như bị sét đánh; những con rối tự động biết vẽ và hát; một chiếc chìa khóa nhiễm điện, làm tê liệt bàn tay và cánh tay của người chạm vào nó; nhiều cơn lốc và động đất; một cái cây đột nhiên rỉ máu… Thế đã đủ chưa? Các vị đã no nê những điều kỳ diệu chưa? Hãy chờ đã. Những điều kỳ diệu đó không tồn tại. Tất cả những hiện tượng đó đều có thể giải thích được, tự nhiên, về cơ bản là đơn giản, và đã được hơn một trăm tác giả xác nhận, mà Madame de Genlis đã dày công thu thập. Bí ẩn là một từ rỗng tuếch, vô nghĩa. Không có gì bình thường hơn một quả cầu lửa xuất hiện trên không trung: tất cả các du khách đều đã nhìn thấy nó; một tảng đá giữ chân những người đi qua nó, như thể họ đã bén rễ, chứa nam châm: chỉ có vậy thôi. Trí tưởng tượng đã cất cánh bay; Madame de Genlis đuổi kịp và cắt đi đôi cánh của nó; sẽ mất một thời gian dài nó mới có thể bay lên khỏi mặt đất một lần nữa.
(còn tiếp)
Bạch Dương dịch từ bản tiếng Tây Ban Nha của Maria Manent, “Los libros, los niños y los hombres”.