
Thơ Miguel de Unamuno (Hiền Trang dịch)
Giới thiệu: Trong ba nhân vật nghệ sĩ lớn của Tây Ban Nha đầu thế kỷ XX, có hai đã quen thuộc ở Việt Nam và trở thành thần tượng lớn: thi sĩ Garcia Lorca (1898-1936), danh hoạ Picasso (1881-1973). Người còn lại, Miguel de Unamuno (1864-1936) đã được biết đến, nhưng vẫn còn mờ nhạt, mặc dù về ảnh hưởng, sẽ không quá khi nói Unamuno đứng hạng nhất. Ông là thủ lĩnh của thế hệ 98 (cùng Azorin, Valle-Inclan), thế hệ xuất hiện ngay sau Benito Perez Galdos, tạo ra một nền văn chương nghệ thuật Tây Ban Nha mới trên tất cả các lĩnh vực: tiểu luận, thơ, kịch, lý thuyết, triết học và văn xuôi. Bản thân Unamuno tham gia đầy đủ các lĩnh vực này và ở đâu cũng có thành tựu được xứ Y Pha Nho ghi nhận, nhưng ở đâu cũng giống một thử nghiệm thất bại. Thành công của Unamuno chính lại là phản chiếu thất bại của văn chương Tây Ban Nha trong nỗ lực tìm một cái gì thật mới sau truyền thống Đông Ki Sốt, và rất nhiều thế kỷ văn chương của họ không so sánh được với Đức, Pháp, Nga và Anh, không tạo ra được một thiên tài nào. Vì vậy, trong văn chương, Miguel de Unamuno luôn tạo ra cảm giác đơn độc. Ông chính là một Don Quijote – bản thân Unamuno khi viết các tác phẩm có tính cách nửa tạp bút nửa tiểu luận đầu tiên, chính là về Cervantes, Don Quijote và Sancho Panza: giữa một đất nước bị đứt gãy truyền thống, cô lập, và chỉ riêng đất nước đó thôi đã tự là vấn đề của chính mình.
Miguel de Unamuno qua đời cùng năm với Lorca, cũng là nạn nhân của Nội chiến Tây Ban Nha, cái chết của ông có phần bí ẩn hơn, và đã được làm thành phim. Nội chiến Tây Ban Nha đã mang lại vinh quang cho Lorca, nhưng lại làm mờ đi Unamuno.
Trong số những gì Unamuno viết, “Niebla” ( Tạm dịch: Mù Sương – M. de Unamuno, 1914) có lẽ là tác phẩm nổi bật nhất. Tác phẩm từ rất sớm hoàn toàn mang tư tưởng mà sau này hậu bối Albert Camus viết trong “Người dưng”: chủ nghĩa hiện sinh. Có cả chất sau này người ta gọi là “hậu hiện đại”: ở chương 16, nhân vật thoát khỏi hư cấu, nhảy ra trò chuyện với tác giả, và tác giả quyết định hãm hại nhân vật chính. Ở lời tựa của Niebla, Vitor Gotí – một nhân vật phụ – là người được đề nghị viết tựa cho quyển sách, và cũng là người tạo ra khái niệm “Nívola” lừng lẫy để chỉ những quyển sách “hậu hiện đại” đến sớm này. Điều này thực ra đã là một truyền thống của Tây Ban Nha: Tirante El Blanco của Joanot Martorell thế kỷ 15 (tác phẩm được đề cập trong vụ phần thư ở Don Quijote), nhân vật đã biết trước mình là nhân vật hư cấu, và qua đó ta biết Unamuno là nhà văn xứng đáng nhất của Tây Ban Nha trên con đường độc hành của họ.
Dưới đây là loạt thơ của Miguel de Unamuno, được chuyển ngữ bởi nhà văn Hiền Trang.
Dưới chân một cây sồi
Dưới chân một cây sồi trên triền đồi
dưới chân chính cây sồi ấy
khi làn gió hồi ức xào xạc qua
những chiếc lá bắt đầu run rẩy.
Chính là dưới cây sồi này — sao, em đã quên ư
dưới chân cây sồi ấy,
cây sồi đã chở che cho ta bóng mát
đối với ta thật rất đỗi sắt son.
Và khi em ngang qua cây sồi khi xuân tới,
ôi, tình yêu đã mất của tôi!
chẳng nhẽ những chiếc lá xanh
trong tâm hồn em lại không run rẩy?
chẳng lẽ ta có thể cứng lòng trước hồi ức
hơn cả tán sồi già?
Dưới chân một cây sồi trên triền đồi
hãy nhớ rằng—nó nằm ở đó!
Mưa tuyết thật lặng im
Mưa tuyết thật lặng im,
thật chậm,
từng bông từng bông, thật tế nhị
nó đáp lên mặt đất
che chở những cánh đồng.
Tuyết lặng im rơi
trắng ngần và nhẹ bẫng;
tuyết rơi không tiếng động,
rơi như là lãng quên,
từng bông từng bông một.
Tuyết dịu dàng che phủ những cánh đồng
khi sương giá tấn công
bằng những tia chớp trắng;
che phủ tất thảy bằng lớp áo choàng
nguyên tuyền và im lặng;
chẳng gì trên mặt đất này
ở bất cứ nơi đâu trốn thoát.
Và nơi nao tuyết rơi xuống, nơi đó tuyết ở lại,
mãn nguyện và vui tươi,
vì tuyết chẳng trượt đi
như mưa,
nó nán lại và thấm xuống.
Bông tuyết là hoa trời,
bông huệ trắng trên mây,
héo tàn trên mặt đất.
Chúng rơi xuống khai hoa
nhưng rồi thật nhanh
biến mất;
chúng duy nở trên đỉnh,
của những rặng núi cao,
và làm đất trĩu nặng
khi chúng chết đi trong lòng của đất.
Tuyết, tuyết mong manh,
rơi xuống nhẹ nhàng như thế
trên đầu,
trên cảm xúc,
hãy đến và sưởi ấm nỗi buồn
đang yên nghỉ trong lý trí của tôi.
Miguel de Unamuno (1864 – 1936)
Đang là đêm, ở thư phòng tôi…
Đang là đêm, ở thư phòng tôi.
Nỗi đơn côi sâu nhất; tôi nghe tiếng đập
đều đặn trong lồng ngực
–vì nó cô đơn quá,
bị tâm trí tôi làm ra tái nhợt–
và tôi nghe máu mình
chỉ một tiếng thầm thì
đủ lấp đầy im lặng.
Bạn có thể nói rằng dòng chảy mong manh ấy
đổ vào đồng hồ nước và tràn đáy.
Ở đây, vào ban đêm, hoàn toàn chỉ một mình, đó là thư phòng tôi;
những cuốn sách chẳng cất lời;
cây đèn dầu
tắm những trang giấy trong ánh sáng yên lành.
ánh sáng của một nhà nguyện nhỏ.
Những cuốn sách chẳng cất lời;
linh hồn những thi sĩ, thiền sư, học giả
ngủ mê man;
cứ thể xung quanh tôi
cái chết cẩn mật xoay tròn.
Thi thoảng tôi quay sang để xem nếu nó đương chờ đợi,
tôi kiếm tìm trong bóng tối,
tôi gắng nhận ra bóng đen mỏng của nó
từ giữa bóng đêm,
tôi nghĩ tới suy tim,
nghĩ về tuổi đời tráng kiện; kể từ tuổi bốn mươi
hai năm nữa đã qua.
Ở đây, trong niềm cô độc,
sự im lặng dẫn tôi
về cơn cám dỗ bập bềnh–
sự im lặng và bóng tối.
Và tôi bảo chính mình: “Có lẽ chẳng bao lâu nữa khi
họ tới bảo tôi
rằng bữa tối đang đợi,
họ sẽ phát hiện ở đây một thi thể
tái xanh lạnh lẽo
-thứ tôi đã từng là, thứ đã từng chờ đợi–
như những cuốn sách kia im lìm cứng ngắc,
máu đã ngừng chảy,
đông đặc trong ven,
lồng ngực lặng yên
dưới ánh đèn dịu dàng của cây đèn dầu
đám tang dễ chịu.
Tôi run rấy kết thúc những dòng sau cuối
chúng có vẻ chẳng giống như
một di chúc khác thường,
mà giống với một thông điệp kỳ bí
từ vùng tối bên kia,
những dòng được chép xuống từ nỗi lắng lo
của cuộc đời vĩnh cửu.
Tôi hoàn thành chúng nhưng rồi tôi sống tiếp.