![[Tản văn] Những đoản luận về viết tiểu thuyết – Đức Anh [Tản văn] Những đoản luận về viết tiểu thuyết – Đức Anh](https://vanplus.vn/wp-content/uploads/2025/08/đoản-luận.jpg)
[Tản văn] Những đoản luận về viết tiểu thuyết – Đức Anh
Văn+ xin trân trọng giới thiệu một tản văn của nhà văn Đức Anh – “Những đoạn luận về tiểu thuyết”. Đức Anh thường được biết đến như một tác giả nổi bật trong dòng tiểu thuyết trinh thám Việt Nam đương đại, với loạt tác phẩm “Thiên thần mù sương”, “Tường lửa”, “Đảo bạo bệnh” và gần đây nhất là “Nhân sinh kép: Sống hai cuộc đời” – cuốn sách được trao giải thưởng Tác giả trẻ năm 2023 của Hội Nhà văn Việt Nam. Với Văn+, anh là cây bút sắc sảo với những bài tiểu luận, phê bình trong mục Văn chương đa chiều, nơi anh bày tỏ những chiêm nghiệm, suy tư của mình về văn chương, nghệ thuật. Một điều thú vị trong tản văn dưới đây của Đức Anh là ở sự hoà hợp giữa con người viết luận và con người viết tiểu thuyết của tác giả ngay trong khi cố gắng để phân biệt cái “rất khác” giữa hai thực hành này. Độc giả có thể vừa gật đầu tâm đắc với những biện giải sắc bén của anh, vừa không thể kiềm lại một cái nhoẻn cười bởi những dòng duyên dáng khi anh viết về người vợ khẽ ngồi kế bên, con mèo quanh quẩn dưới chân, căn phòng nhỏ nơi anh sáng tác tràn ngập âm thanh của những sinh hoạt thường ngày không cắt nổi anh rời ra thành hai mảnh – người chồng hay người thơ…
Những đoản luận về viết tiểu thuyết
Mỗi lần viết tiểu thuyết, vợ tôi sẽ là người nhận ra đầu tiên. Những người viết may mắn thường có những bà vợ như thế: vợ của Lewis Wallace – nhà văn của kiệt tác Ben Hur – đồng thời cũng là người biên tập viên tin tưởng của ông. Vợ tôi không biên tập, nhưng thường chuẩn bị cho tôi nước, hoa quả, chủ động cắt giảm việc nhà (lãnh vực mà tôi cũng không đến nối là không rành rọt). Vợ tôi thường ngồi im lặng xem tôi viết và nàng chuyển từ một người ban đầu có nhiệm vụ đọc bản thảo đầu tiên, sang lĩnh vực tuyên truyền: ủng hộ mọi lý lẽ và tin chắc rằng quyển sách đó hay. Cái yêu của nàng đặc biệt đúng đắn, cái yêu của hoà quyện thiếu nữ và của người mẹ.
Viết tiểu thuyết thì rất khác với viết luận. Khi viết luận, người ta tranh đấu với và cho một điều gì đó. Viết luận thì phải lập luận và tát nước qua hai bờ đúng sai. Những kẻ viết luận giỏi và thu hút thường thông minh và lắm nỗi niềm, là người có sự minh mẫn điều khiển được kẻ nổi loạn bên trong, sai bảo hắn đi đúng đường trong một bài luận. Kẻ viết luận thường chống lại một cái gì đấy: sự chống lại kéo đám đông về phe và tạo ra một đám đông khác phe; kết quả ta có hẳn hai đám đông. Những nhà biên tập luôn có lựa chọn mới là tìm đến những người có nhiều đám đông vây quanh như vậy để dễ bán sách hơn. Ta lại có một cặp tình nhân hờ mới.
Nhưng khi cuốn sách đầu tiên được ra đời, người viết luận sẽ đứng trước mấy thử thách không nhỏ. Thứ nhất, cái cảm giác nổi loạn ban đầu sẽ vơi đi nhiều, nếu cuốn sách thành công về thị trường. Giờ còn gì để chiến đấu nữa? Hoặc ta sẽ đi tiếp con đường vì một cuốn sách thì chưa đủ. Hoặc ta bỗng trở thành người lương thiện. Cả hai đường đều tất yếu dẫn đến những quyển sách khác không thoát được cái ban đầu. Dẫu sao, sự thay đổi bên trong tinh thần sẽ là rất lớn, gần như có cái gì đó đổ vỡ. Người viết luận đến một thời điểm chỉ còn ngôn ngữ là người bạn chân thành bên cạnh. Lúc đó văn chương mới thực sự hiện ra, không phải là lúc đọc sách.
Người viết luận đi tìm chân lý đúng sai trong luận cứ và luận điểm. Nhưng người viết tiểu thuyết quan tâm đến… giả lý (từ này chắc không có thật, nhưng đã đành, nó sẽ trái nghĩa hoàn toàn với chân lý). Cái giả lý là cái khoảng nghịch lý tối tăm tất yếu của đời sống sinh động, mà bên trong nó, hay bên cạnh nó, chân lý vẫn sống được nhưng theo một cách luồn lách. Nhưng không có giả thì cũng không bao giờ có chân. Ta thường bực mình với nội dung self-help không phải vì nó sai, mà vì nó… quá đúng. Đúng như thế thì còn nói làm gì nữa. Đời ngoài cái thật, cái thực chiến còn phải có cái giả. Cái giả cũng phải chỉnh tề và trang trọng chứ. Tiểu thuyết phát hiện ra giả lý cũng có giá trị, ta chỉ có thể cười và bao dung với nó thôi, và đôi khi nhìn chính xác vào nó, dụng công làm nó đẹp hơn. Nhìn chung, người viết luận đấm thẳng vào mặt vấn đề, trong khi người viết tiểu thuyết – nếu có vấn đề (vì không phải lúc nào cũng cứ phải có vấn đề gì đó mới viết) – thì sẽ chơi khăm hoặc bảo ban nó theo cách của một người già.
Người viết luận tách hoặc bị tách khuôn mặt và tiếng nói khỏi câu chữ, một điều cần thiết và lành mạnh. Nhưng viết tiểu thuyết thì khác, câu chữ phải gồm khuôn mặt và lời nói của anh ta, theo một cách nào đấy. Mỗi kiểu có một cái dở. Nhưng với tiểu thuyết, ta phải sống nhiều hơn những bài luận, phải đủ khả năng lý giải được những cay đắng đã qua một cách thản nhiên, phải cố gắng dàn xếp, cư xử công bằng với tất cả trừ cái tôi cá nhân. Câu chữ của tiểu thuyết là câu chữ của văn chương, ngoài tính thông tin, nó phải có năng lực ngồi chờ, giống như những người đến sớm trước nhất của một cuộc hẹn lớn, vì nó coi độc giả là những người bạn và nó cần tình bạn.
Khi vợ chồng tôi dọn về căn nhà mới, tôi nhận ra ở đâu có gia đình mình thì ở đó có thiên đường. Đấy chính là ngôi nhà bay lên trong những giấc mơ tuổi nhỏ. Vợ tôi mua đủ các loại dầu gội, nước rửa chén, đổ đầy nước giặt vào chai lọ, sắp xếp mấy lọ thuỷ tinh mới đựng bột canh, hạt nêm. Chúng tôi trồng khoai lang ngoài ban công. Mầm khoai kéo lên bí mật và kiêu hãnh, nhưng không bất hợp tác như trường hợp giá đỗ. À thì mày rồi cũng mất đời trong răng chuột. Chúng tôi dọn vợi những thứ linh tinh mua được trong các blackfriday mà Trung Quốc sáng tạo ra: máy gãi lưng, cây lau nhà bằng tay… Vứt đi già nửa. Mặc dù vậy, tôi vẫn rất ngưỡng mộ những phép màu vô dụng ấy mà suýt tôi viết thành một câu chuyện thiếu nhi. Nước thấm vào tường trong những trận mưa tháng tám khiến tấm giấy A0 đã dán lên trước đó hãy còn phải chờ được bóc ra lần nữa, trước khi trở thành một storyboard đúng theo đam mê của đời nó.
Những tờ giấy màu loại có thể dán được đã được chuẩn bị để tôi viết các nhịp truyện lên đấy, theo đúng sáu hồi. Một nồi khoai xương reo trong bếp đòi được quan tâm, hơi khói xua con thạch sùng bỏ chạy. Máy tăng áp nước (trên tầng cao các nhà tập thể) rin rít khó chịu vì chiếc tủ lạnh thi thoảng ợ hơi. Nhưng con mèo đi tuần xung quanh lại không thấy vấn đề gì. Nó không hài lòng với cảnh an nhàn chán chường của cõi Đào nguyên nên chui thử vào gầm sofa, ở chỗ đó: một chú kiến gian dối phao thông tin ẩu khiến cả đám chạy loạn xạ. Đuôi của đàn kiến lao lên chỗ bàn của tôi ngồi đúng lúc tôi đang nghĩ đến cách để mở đầu câu chuyện. Kiến ơi, hãy chờ ta.
Khi viết tiểu thuyết, ta vừa nhớ đến người đọc, lại phải vừa quên họ. Vừa nhớ lời khen của quyển trước, lại vừa nghĩ đến những bạn đọc mới. Thông điệp phải hợp thời nhưng phải đi xa hơn thời: nó cũng nên phản biện những điều sắp được xã hội phản biện. Đồng thời, ta phải đủ hài hước. Nhân vật trong truyện thì cần ăn nói cộc lốc một chút, vì người Việt ta họ như vậy. Tốt nhất nếu có đối thoại thì một người phải nói chuẩn chỉnh, rất dài và một người hay nói cộc. Kẻ nói chuẩn chỉnh thường là kẻ nhiều manh tâm, còn kẻ nói cộc thì là người tốt, nhưng người tốt đó là một kẻ khó chịu. Viết tiểu thuyết ở Việt Nam, nhất là ngồi giữa thủ đô ngàn năm văn hiến, ta dễ quên đi rằng đất nước mình quá đa dạng, quá nhiều cộng đồng, nhóm người, văn hoá. Ở một số nơi, thơ không hề tồn tại, tiếng nói của dân tộc ấy đã là thơ rồi. Đại chúng là cụm từ dành cho độc giả Hà Nội và Sài Gòn mà thôi.
Tôi nói với vợ tôi rằng chúng ta cần một bí mật mà đến cuối truyện mới được giải đáp. Nhưng ngoài trời cứ mưa mãi, mưa mãi. Khối lạnh sừng sững tiến vào cửa nhà như một tay thợ sửa bình ga cau có. Nồi khoai xương và máy tăng áp ngừng kêu. Trời cho một khoảng dừng.
Khi viết, ta thường có một hình ảnh kết nối sâu thẳm với bên trong: hình ảnh đó đặc biệt ở chỗ nó không có đường để tìm thấy bằng giác quan thông thường. Nó trực tiếp nằm ở khu vực não bộ giống như một con ông cháu cha trên trung ương và giác quan không có tác dụng gì. Ta không biết nó là gì: ta thường thấy nó trong mơ và ta được nó ban cho một cảm giác hạnh phúc. Khi thì ta thấy nó thân thuộc như một quãng đường tuổi thơ, khi ta thấy nó là một cảnh xa lạ. Khi viết, tôi nghĩ đến một cành cây ướt đẫm buồn bã dưới mưa lập thu, cành cây ấy theo nếp run của nó, kéo nhũn thời gian xung quanh và ta thấy thì giờ cũng có thể bốc hơi như nước quanh nó.
Trong căn nhà và trong tình yêu, tôi thấy hạnh phúc. Nhưng cuốn tiểu thuyết nhất định phải bắt đầu bằng tình yêu – thứ đã vắng bóng quá lâu ở văn học ta, nơi đã nhiều tổn thương, ma quỷ, kỳ án và hằn học.
Tôi mới bắt đầu gỡ tấm phông giấy A0 xuống, cuộn nó lại. Trang giấy trắng hiện lên hình ảnh một nơi hẹn hò. Một đôi tình nhân hờ. Người con gái nhỏ bé, gầy quắt, khôn lanh, xinh đẹp yêu một người đàn ông có tuổi. Nhưng lại không phải vì tiền, mà là vì ông có thể giúp cô về chuyên môn sổ sách kế toán, cô này con nhà danh giá, nhưng làm ở một nơi sản xuất thực phẩm chức năng. Người đàn ông – đã trải qua quá nhiều vinh nhục – mở lòng với tình cảm ấy, không hẳn quá yêu, không thấy hấp dẫn về tình dục mà chỉ mến cái thân hình yếu đuối mà thú vị. Đôi tình nhân hờ ấy chỉ gặp nhau mỗi tháng một lần, họ không bao giờ đến muộn, tôn trọng thời gian của nhau. Họ đã kịp yêu nhau trước khi câu chuyện đích thực mà tôi định kể bắt đầu.
***
Sau những ngày dài viết tiểu thuyết, tôi đã rút ra được mấy kinh nghiệm làm sao để trò chuyện được với những nhân vật tưởng tượng. Những người viết khác có thể có kiểu khác.
Rồi hãy ngồi khoanh tay, chân xếp bằng như một đứa trẻ lớp hai bỗng có hứng với những hình ảnh ngoan ngoãn. Hoặc duỗi chân xuống cho thoải mái một chút. Đấy là một.
Bước thứ hai: ta phải trong suốt, y như những con sứa trong món nộm ở bia hơi Hải Xồm. Nghĩa là ta phải trục xuất hết mọi tình cảm, theo cách của một lão già lẫn đã xảy nhà. Buông bỏ nhưng không phải kiểu Thiền, mà theo kiểu rất cáu bẳn, bực tức và thất vọng. Theo kiểu muốn chửi um lên nhưng dằn lại. Trục xuất xong tình cảm, thì hãy liệt kê nhanh tất cả con người và đời sống xung quanh, gom lại trong một hình ảnh rồi vứt vào đâu đó. Cả những dĩ vãng vàng son của tình trường hay khổ đau những trận đòn cũ. Nếu thế giới thực chưa chán ta hẳn, thì làm cho nó chán ngay đi lập tức. Hãy giống như một trưởng phòng kế toán. Viết văn, và làm kế toán, xét về tính chất công việc thì cơ bản là hoàn toàn giống nhau, chỉ khác đi một vài yếu tố phụ trợ không có gì đáng kể.
Hãy quên luôn giới tính, tên và địa chỉ nếu có thể. Nhưng nếu không thể thì bỏ qua bước này. Hãy quên luôn ngày mai và những ngày trước đã qua. Nhưng thật ra không cần cố gắng vì nếu ta chỉ cần im miệng đi không định nói gì nữa, thì sẽ tự nhiên quên được tất cả ngần ấy thứ lằng nhằng.
Cửa luôn để hờ, hãy pha cafe nóng. Hương cafe bốc lên sẽ trông giống như cái khí của một bàn thờ mới đỏ nhang trong trận giỗ đầu.
Như vậy ta đã mở được một vết nứt của thực tại, và của thời gian vốn đã xơ vữa trên đồng hồ: lúc này ta đi vào lĩnh vực của bất tận. Các nhân vật trong tiểu thuyết cần được định hình trước khi ta mời họ đến. Nếu đã định hình, họ sẽ đến sớm thôi.
Đối với riêng tôi, khi nhân vật chính vào trong nhà, anh ta chỉ ngồi im lặng ngó nghiêng như trọng tài quần vợt. Chúng tôi không nói với nhau câu nào suốt non một tuần. Anh ta muốn truyền đạt cho tôi rằng: không nói gì, và gần như một người câm, thì mới cơ bản đóng vai chính được.
Bài tập để câm hình như khá quan trọng để viết lách, nên câm hẳn mồm trong vài hôm, (nhưng tối đa hai ba hôm thôi).
Các nhân vật khác, bao gồm một cô gái rất nhỏ nhắn và xinh đẹp, một chị thiếu nữ hơi nhợt nhạt, một ông bụng phệ nhìn dễ thương… Tôi biết tất cả những điều về họ. Nhưng cái sự biết đó không khác gì biết nhau qua Mạng xã hội hoặc tệ hơn là biết nhau qua Tinder. Nghĩa là viết văn theo kiểu tìm tài liệu trên social media. Vì gặp nhau ngoài đời thật thì mới thấy hết cái bình thường và tầm thường của nhau. Và cũng không ai là ẩn dụ cho bất cứ cái gì cả. Tất cả các nhân vật đều dần gột đi cái tính chất phiêu lưu giang hồ mà truyện cứ ép họ vào. Giờ thì chỉ có thể trò chuyện, và hiểu nhau qua trò chuyện.
Nhưng điều đáng kể nhất, có lẽ quý giá nhất, đó là sau khi trò chuyện xong, ta vẫn không hiểu chút nào về nhân vật đó, dù đã chắc chắn là hiểu lệch đi so với lúc đầu. Ngược lại, tôi thấy các nhân vật bắt đầu hiểu tôi hơn.
***
Giờ chúng ta cần phải bắt đầu từ đây, để đi đến một trong những đề tài lớn nhất và sau cùng của sự viết: siêu thực.
Hồi còn nhỏ, tôi có đứa bạn hàng xóm rất khoẻ và rất hay bảo vệ tôi khỏi bắt nạt. Tôi chưa bao giờ thực sự nhìn thấy nó đi học, nhưng tất nhiên nó luôn đến trường, đến muộn hoặc sớm hơn tôi, không bao giờ cùng giờ. Một hôm nó thú nhận sau ngăn tủ nhà nó, có một cái cửa, nó đi qua đó và đến trường luôn. Nó ngạc nhiên vì tôi thấy chuyện đó kì lạ, vì với nó, chuyện đó không hề kì lạ: nó vẫn như thế từ bé. Chuyện tất nhiên có thể là bịa, nhưng nó vẫn làm tôi ngạc nhiên: ngạc nhiên không bởi cánh cửa thần bí, mà bởi cái thản nhiên của thằng bạn. Tôi tin trong đời nó thực sự có những thứ ấy. Chúng tôi không gặp lại nhau nhiều sau này. Nhưng nó đã thành công trong đời sống công chức, chẳng hạn nó đã tìm được một cửa nào đó tiến thân, cũng theo lối đằng sau cánh tủ.
Chúng sinh bình đẳng trước….tiểu thuyết. Đứng trước những trang giấy trắng khêu gợi đang nằm ưỡn ra đợi ngòi bút cấy lên những đòn bạo tình của một bản thảo mới, tất cả chúng ta đều là trai tơ như nhau, từ nhà văn nổi tiếng đến anh viết nghiệp dư, từ thiên tài đến người mới đến: chất phác, hào hứng và bế tắc. Đừng có nói kinh nghiệm, danh tiếng… Chúng vô nghĩa, và thường vô ích.
Bởi vì ngôn ngữ thì có tâm linh. Hay nếu không muốn nói, ngôn ngữ chính là tâm linh. Câu nói nổi tiếng của Heidegger: “Ngôn ngữ là ngôi nhà của hữu thể” thì có thể hiểu như ngôn ngữ là nhà của tâm linh. Sự viết chứa trong đó không phải chỉ những điều định nói, mà cả những điều không định nói ra, hoặc không muốn nói ra, hoặc nói ra một lần cho nó xong cha nó đi… Ai không hiểu điều này thì chưa bao giờ thật sự biết viết. Sự viết luôn cố vượt rào qua lý trí vì nó luôn muốn thế: có một hấp lực vô hình cám dỗ cây bút, từ đâu đó xa xôi trong tâm tưởng. Khi ngồi viết mà dừng bút ta nhìn lên rất dễ sẽ thấy mặt mình trên tường, dù tường không hề có gương. Sự viết khi ấy kéo lên một lớp sương mù vây quanh người viết, trong ngôn ngữ của chính kẻ viết, có những điều chính họ không hiểu được, hoặc không biết là mình có hiểu. Khi viết, người ta được dẫn hướng bởi cả tiềm thức lẫn lý trí, nhưng sự viết không thể thành công nếu không đặt tâm tư vào chính giữa trung tâm của nó. Bởi nếu không ta sẽ chỉ có sự viết nói dối và sự viết thực thà: cả nói dối, lẫn thực thà trong viết đều không mang lại một chút giá trị nghệ thuật nào.
Nó không chạm đến cõi tâm linh rộng lớn, hay tính siêu thực của đời sống.
Tâm linh là không gian giao cảm của cộng đồng, ta có ký ức chung, những tập tục và cõi tâm linh riêng mỗi người. Cõi tâm linh của riêng mình: một mặt phẳng hội dồn những gì ta yêu bằng cả cơ thể sinh học, gồm cả những vật thể, hình khối trong thực tại và tưởng tượng. Con người tư duy bằng ẩn dụ chứ không phải bằng cách vật. Cõi tâm linh cứ thế hiển hiện (và run rủi) ngôn ngữ: khi đó ta có siêu thực.
Để khỏi rắc rối, tôi xin kể tiếp một câu chuyện. Trong một truyện ngắn của Haruki Murakami, một người đàn ông trưởng thành bình thường xưng tôi kể lại chuyện hôm ông ta bước chân vào một quán xông hơi, tất nhiên cũng có thể giống xông hơi mát xa Hà Nội. Nhưng những gì bất thường bắt đầu lộ ra như một gợi ý thiêng liêng nào đó: lão chủ quán thì không có lông mày, một con gà kì dị… Thế rồi ở bồn tắm, thay vì một kỹ thuật viên tẩm quất như trong truyện Con Thú Mù của Edogawa Ranpo, thì là một con khỉ Shinagawa biết nói tiếng người. Con khỉ sau đó được người đàn ông tips tiền, mời cả uống bia và ăn bim bim.
Cuộc bia khá vui, con khỉ tâm sự rằng việc nói tiếng người làm nó mất luôn kết nối với thế giới khỉ, và đồng thời, luôn cả mất kết nối với thế giới người. Nhưng con khỉ vẫn là một trái tim đập giữa vũ trụ: nó có tâm tư, vì thế nó yêu. Nó yêu các cô gái người. Đến đây truyện bắt đầu gay cấn, trong men bia (chắc ngon), người đàn ông bắt đầu chấp nhận và thông cảm với chú khỉ tội nghiệp. Con khỉ rượu vào lời ra bắt đầu tâm sự: để giải quyết nhu cầu yêu, nó…đánh cắp tên của các cô gái. Tức là ăn cắp bất cứ thứ gì có ghi tên người mình yêu. Người đàn ông hiểu rằng con khỉ ấy là hiện thân của cô đơn tột cùng và tình yêu tột cùng.
Chuyện không để lại dư chấn gì đặc biệt. Chỉ là khi ra về, người đàn ông nhận ra dường như những gì gặp đêm đó đều không tồn tại: cả con gà kì dị, lão chủ nhà lẫn con khỉ. Cứ như cơn mộng. Nhưng nhiều năm sau, người đàn ông quen biết một nữ đối tác, cô gái mắc chứng quên mất tên của bản thân, đặc biệt từ hôm túi xách cô bị lục lọi, không mất tiền, trang sức hay thẻ ATM, mà lại mất bằng lái xe. Người đàn ông nghĩ đến con khỉ Shinagawa năm nào, tình yêu tột cùng, cô đơn tột cùng. Nhưng nhân vật tôi giấu câu chuyện vào lòng và quyết định không kể với cô kia, không phải vì anh ta sợ câu chuyện quá khó tin mà là anh ta không thấy mình có tư cách gì để nói ra bí mật đó.
Nếu câu chuyện chỉ dừng lại ở việc có một con khỉ như vậy, thì đó chỉ mới ở mức độ là truyện giả tưởng.
Nhưng vấn đề là truyện ấy không kể về con khỉ Shinagawa, nó kể về chính người đàn ông (nhân vật tôi): sự chấp nhận một thế giới lung lạc như thế tồn tại ngay trước mắt, trong sự chấp nhận ấy có nét tâm giao tương thông với một thực thể khác cùng cõi. Khi người đàn ông chấp nhận con khỉ ấy thực sự đã hiện diện, ông ta tiến đến chỗ của siêu thực. Trong sự chấp nhận ấy có cả nhìn nhận, lựa chọn để đạt một hiểu biết mới, một lý trí bừng nở và gần với hạnh phúc.
Từ giả tưởng trở thành siêu thực: đây tiến trình đúng đắn đưa một cuộc đời thế tục tiến đến một cuộc đời đích thực, trong đó nhất định phải có những liên lạc với các thế giới khác, bằng văn học. Và nó chỉ quan trọng với một vài người, với nhân vật chính, với tác giả, với một vài bạn đọc. Ta nhận ra chính mình, ta bắt đầu hiểu ra gì đó, đồng thời tìm thấy mối liên lạc giữa mình và người khác trong cõi.
Siêu thực thì khác với giả tưởng vì siêu thực là cái bao trùm của đời sống, giả tưởng thì ngược lại, là phần bị tách ra một cách tàn bạo, khi người ta đã mất hẳn kết nối. Giả tưởng là cái cửa trong thú nhận của thằng bạn tuổi thơ. Giả tưởng có thể hoàn toàn không cần thiết: ta không cần bất kỳ phép màu nào dành cho Chí Phèo. Nhưng siêu thực thì khác: siêu thực là đích để vươn tới, vì nó là dấu chỉ của chân lý hoàn vũ. Chí Phèo bị chối bỏ làm người ngay từ đầu, ngay từ lúc sinh ra, nhưng cũng chỉ tìm được phương cách đến đích trong con đường siêu thực: về cuối truyện Chí không còn thấy ngoại cảnh hay thực tại. Kẻ sống dậy trong Chí không phải là anh chàng mồ côi thưở nào, đó cũng không phải là con người đích thực của Chí, cái thức tỉnh trong Chí là cái ác thuần khiết đã về đúng chỗ trong đối sánh với lương thiện. Thế giới thực vốn sai lầm, Chí tìm được một con đường tâm linh
Nhưng tại sao lại nói “văn nó ăn vào người”?
Sự viết là con đường trái tự nhiên: nó là nhát dao của Chí Phèo đâm vào thực tại, do đã mất kết nối. Hành trạng của Chí Phèo chính là kẻ viết văn: ban đầu ước mơ làm người, về sau rạch mặt ăn vạ, sự viết cũng có rượu, có tình yêu và có hối hận, nhưng đặc biệt cuối cùng là trở về hư vô. Đáng ra phải ngộ ra hư vô từ đầu. Phải thấy cái siêu thực trên đầu mình.
Con người nếu không cảm thấy mất liên lạc và trở thành Khỉ Shinagawa đứng giữa cõi người và cõi tự nhiên, thì sẽ không cần văn chương, không cần đánh cắp một cái tên nào. Văn chương hoàn toàn có thể dẫn người ta đi lạc lối, đến chỗ rạch mặt và sa đoạ rượu, tác động sâu đến tận chân cột bản lề của tâm tư và làm đời người không yên được. Vì thế sự viết không thể là gào toáng lên và cố gắng nổi loạn.
Giờ tôi đã nghĩ hoàn toàn khác nhân vật Kiên trong Nhân Sinh Kép: Sống hai cuộc đời. Vì ta có tâm linh của sự viết, nên Viết là nghe. Viết là nghe chứ không phải là nói, và trong một thời đại của sự nói (mạng xã hội, livestream, sách dạy) thì lại càng như vậy.
Viết là nghe những người khác nói, nghe cả những sự vật, những loài cây, một cốc trà bốc khói, những ngón tay thon nhỏ gảy hột lựu bóc ra trên đĩa sứ tựa như một kỳ thủ dò nước đi ván cờ mù… Ta thấy vang động trong tất cả không gian bình thường một lời nói sắc lạnh, cũng có khi là mách lẻo, tủi hờn và nghi kỵ của những vật vô tri, nhưng dẫu sao là sức sống đang căng buồm. Cây là loài sinh vật cao cấp nhất, kiến và nấm – những đỉnh cao tột cùng của bản năng – thống trị trái đất và loài người – những nhà vua khổ đau của lý trí – cũng đang có con đường riêng. Trong sự viết, ta thoả hiệp với cây, kiến và nấm. Ta nghe từ ngữ mách đường đi đến một chỗ tâm giao với người đọc: ta cần phải nghe được cả người đọc nói gì ở trong những thứ ta viết.
Và như thế, viết không phải là truyền thông, cũng như đọc không phải là tiêu thụ và review.
***
Văn chương có liên quan gì đến cảm xúc không? Tôi ngờ là không, trong mọi nghĩa. Văn chương và lòng cảm thương (hay cảm xúc, tình cảm) nhìn thì rất gần, nhưng không gần nhau đến như thế. Văn chương đứng về phía con người? Đúng, nhưng không tuyệt đối. Trong một nửa thời gian của nó, nó chẳng đứng về phía nào cả, nó là nó thôi, vì thế nó rất rộng lớn. Văn chương phải giữ khoảng cách với lòng cảm thương, thụ thụ bất thân. Bởi viết là công việc duy nhất trên đời đòi hỏi người ta phải luôn luôn lùi lại mà nhìn nhận. Nó không phải là một tấm áo cứu một người cơ nhỡ trong chiều lạnh, nhưng văn chương chỉ cho người ta cách để dệt vải. Đấy là mới là cách văn chương đóng góp cho cuộc đời, nếu không muốn nói là tạo nên cuộc đời.
Tại sao ở trên ta nói về một nửa thời gian?
Cũng giống như con người, có cội rễ thời gian (liên quan đến gốc gác, lịch sử), văn chương cũng như thế. Viết tiểu thuyết nghĩa là bắt nhịp vào một truyền thống, dù có muốn hay không. Truyền thống ấy là gì? Ta sẽ đi thẳng vào vấn đề luôn: ở thế giới, đó là Gil Blas (Lesage), Don Quixote (Cervantes), A Sentimental Journey và Tristram Shandy (Laurence Sterne), Hồng Lâu Mộng (Tào Thuyết Cần). Trong những khởi nguồn của tiểu thuyết hiện đại, chỉ có Don Quixote và Hồng Lâu Mộng đã vượt qua thời gian để ở lại. Ở Việt Nam cũng thế: Tố Tâm (Hoàng Ngọc Phách) – Một Chuyến Đi (Nguyễn Tuân) – Số Đỏ (Vũ Trọng Phụng) – Lan Hữu (Nhượng Tống) – Sau Ánh Sáng (Trần Huyền Trân) và Thanh Đức (Khánh Hưng). Nhưng một nửa đã ở lại: Số Đỏ đã gặp vận đỏ, Lan Hữu và Thanh Đức đã trở lại, Tố Tâm tuy không nổi bật nhưng cũng được lịch sử cầm lên.
Nhưng Một Chuyến Đi, Sau Ánh Sáng đã biến mất, đã rời khỏi chúng ta, chúng ta không còn đọc những quyển ấy nữa. Gil Blas, và các tiểu thuyết của Laurence Sterne nữa, chẳng mấy ai còn biết đến nó. Họ đã đi đâu? Lịch sử đã quên họ chăng?
Không. Một nửa ấy đã đi vào bóng tối, cái bóng tối khôn cùng sẽ tạo ra những hố đen sâu thẳm khác. Lịch sử của Văn chương khác với lịch sử của thời gian như chúng ta vẫn biết: hãy tưởng tượng, như Alain nói trong “Hệ thống mỹ thuật”, lịch sử là một dòng chảy gì đó nằm bên dưới, một máng mương, và truyền thống văn chương là những cơn mưa. Có những một nửa đã rơi xuống dòng chảy ấy, có một nửa vẫn ở trên, nhưng sẽ trở lại, sẽ xuất hiện vào những thời điểm lớn. Nhưng không phải là thời điểm của nhân loại, mà của chính tôi, chính bạn, chính khoảnh khắc cá nhân của người viết tiểu thuyết.
Ta tìm trong thời gian của tiểu thuyết sẽ sẽ thấy chính mình, đấy là một trục còn lại thường bị khuyết, bởi người viết thường chỉ quan tâm đến họ trong hiện tại trên trang giấy, hiện diện như thế thì chưa đầy đủ.
***
“Đây là cuộc đời của bạn, bạn yêu nó, và nó thuộc về bạn”.
Vậy viết – nói chung – có ý nghĩa gì trong đời ta?
Vào ngay khoảnh khắc mà tôi nhận thức được sâu sắc về điều trên, mọi vấn đề của tôi bỗng dưng biến mất, hoặc nếu không biến mất thì cũng hiền lành đi rất nhiều. Cái sự nhận thức ấy không giống như tỉnh thức hay giác ngộ, nó gần gũi, giản dị hơn nhiều. Nó tựa như một trát gửi đến phòng giam, người cầm trát ăn mặc chỉnh tề, có thắt lưng, đai mũ, anh ta đứng nghiêm, quân dung ngời sáng và dõng dạc tuyên bố thả tự do cho tù nhân. Tù nhân ấy là một khao khát sống, ghi dấu, được là mình, là chính mình giữa mọi người, tự đi hành trình tâm linh của mình, tự xây xếp đời sống vật chất của mình, một cách tự nhiên không cố gắng, cũng không bận tâm nhiều suy nghĩ của kẻ khác. Chỉ còn một tình yêu nồng nàn trong tâm trí với đời sống sôi động xung quanh. Đời sống giờ đây trong tầm với, gần gũi và quyến rũ như vòng tay tình nhân. Những giác quan bung nở, kỷ niệm được huy động, trong phút giây nhìn thấu suốt mình từ xưa đến nay, thấy những phiên bản của mình chứa một ít của mình và một ít cóp nhặt người khác, thấy dĩ vãng chứa tương lai, thấy hiện tại không còn đáng sợ và nghịch cảnh là những trò chơi có luật chặt.
Nhận thức sâu sắc của tâm trí tất nhiên rất khác với nhận thức bình thường của lý trí. Và đấy là khoảnh khắc quyết định. Ta muốn làm việc, muốn ghi dấu ấn, ta tự nhiên biết chắc ta phải làm gì và chưa bao giờ tin tưởng mạnh mẽ rằng việc ta đang làm đang và sẽ mang lại đời sống như ta muốn. Không có khoảnh khắc này thì bạn ơi, ước vọng tự do tinh thần của chúng ta e rằng sẽ là viển vông, hoặc thêm một phần đời hoang mang nữa. Một số vốn mạnh, một chuyên môn chắc cốp, một quãng thời gian dư thừa… tất cả chỉ là những cái về sau, chúng cũng không làm nên được việc làm chủ đời mình.
Tôi từng chứng kiến, mà chắc là các bạn cũng từng chứng kiến, rất nhiều người có tự do hành vi, tự do nghề nghiệp (freelancer), thậm chí luôn cả tự do tài chính… nhưng họ không hề tự do. Lúc nào họ cũng bận lòng hoặc bị trói buộc vào cái gì không thể giải thích. Thậm chí càng trông có vẻ tự do thì tâm trí càng bị cầm tù: tôi từng thấy nhiều người bạn hơn tôi mươi tuổi, đã đầy đủ về vật chất, nhưng trong lòng lúc nào cũng vật vã một cái gì đó. Khát khao nghệ thuật, khát khao chữ nghĩa, nỗi sợ chết. Rồi họ tìm đến thiền, nhưng cũng không thể tĩnh tại để mà thiền.
Ý ở đây tôi muốn nói cái tự do hay không nó không quyết định nhiều ở ngoại cảnh bằng cái suy chuyển mạnh mẽ bên trong.
Nhưng tất nhiên để có được một tự do tinh thần, ta phải trải qua không những những quãng sống khắc kỷ, mà còn những tự do giả tạo. Quãng đời tuổi trẻ của chúng ta là như vậy, nó là tự do giả tạo. Lúc đó tôi chưa có gia đình, cũng không nhiều ràng buộc đời thường như bây giờ, tôi có thể mặc sức đi bất cứ đâu, rảnh là đi Đà Lạt, ra Huế sầu trọn một chiều, những tối buồn uống bia đến khuya muộn, ôm đàn hát ngoài vỉa hè với các bạn, nghỉ việc nếu không còn thích… thế mà nhìn lại tôi thấy bây giờ mình tự do hơn nhiều. Là vì ngày ấy, tâm trí tôi đi tìm mải miết một cái gì đó vô hình đã đánh mất từ tuổi thơ và giờ biến hình thành tham vọng và khao khát của tương lai. Nghĩa là nó bị cầm tù trong mênh mông vô định của cuộc đời bao la bí ẩn.
Nhưng ngay cả sống có mục đích rất rõ ràng, thì tự do tinh thần cũng không đến nhanh đến như thế. Sự tự do tinh thần là kết quả của một quá trình xây dựng: đúng là nó đến với ta đột khởi, tuỳ hứng nhưng nó không đương nhiên. Tôi chưa muốn nói ngay đến việc xây dựng triết lý hành động, nhất quán xuyên suốt gì đó…dù đúng là thế: khi thành lập thì việc đầu tiên Đảng ta cũng là triết học và cương lĩnh, chứ chưa phải là chiến lược hành động. Ở đây là một xác lập tâm thế tiếp cận cuộc sống, cái tâm thế đó ta phải lấy từ chính những gì ta trải qua, dù là những kỷ niệm không đáng có, những hiểu biết mơ hồ của ngày còn thơ… để thấy cái gì là trống vắng, là phù hợp với mình, là cái khao khát của mình và cái hình dung rất trực cảm của mọi người về mình. Trong ấy có một tiếng gọi lên đường, rằng phải đi theo hướng này mới là đúng. Thế rồi ta quyết định làm, dù là buôn bán, làm nghiên cứu hay làm công sở… Ta làm vì ta muốn và ta nhìn thấy đích đến. Đường này là của ta trong sách kinh số phận.
Trong đời thường, có những thứ thuộc về tính thiêng. Ta phải nhìn thấy được nó. Một bộ quần áo chỉnh tề, lời thưa trước nhất của giờ phát tang, những cữ lau bàn dọn dẹp trước khi đi làm… tạo nên trật tự ẩn của đời sống. Ngay cả tình yêu cũng nên có một chút tính chất tôn giáo, đừng nên coi thường nó: những khoảnh khắc bên nhau phải cộng thành một giờ linh, phải hiểu rằng cái hôn ngay ngắn mới chỉ điểm được hạnh phúc và hãy cười chào nhau khi đến và khi ra đi.
Trong một bài phỏng vấn, ở phiên bản chưa biên tập, nhà báo hỏi tôi qua thư điện tử: tại sao lựa chọn viết văn, và khoảnh khắc nào thấy hạnh phúc nhất. Tôi nghĩ rất lâu. Tôi nghĩ đến quãng đời khó khăn của mình lúc trẻ tuổi, đã bỏ qua những lựa chọn nghề nghiệp xác đáng từ mẹ mình. (Nếu cha mẹ chúng ta khuyên chúng ta làm gì, thì sau này ta đều biết là có cơ sở và đều đúng cả đấy. Nhưng nhiều khi chỉ đúng thôi thì chưa đủ). Tôi nghĩ đến cuốn sách đầu tiên đã giải thoát bao nhiêu ẩn ức, nghĩ đến cả độc giả và bạn bè văn chương thân thiết, những giải thưởng và phút vinh quang ngắn ngủi.
Nhưng cuối cùng tôi đã viết trong email như thế này. Lựa chọn viết văn là lựa chọn dại dột, bản năng, nhưng dần dần đã trở thành lựa chọn đúng. Dường như hành trình của mọi người đều là biến những cái mà ta làm theo rực giác trở thành những quyết định có triết lý và chứng minh được bằng thành quả hiện hữu. Trước tôi viết để tìm mình. Nhưng giờ tôi lại viết văn như ban đầu, để nhìn mình. Còn khoảnh khắc hạnh phúc nhất là khoảnh khắc trở thành nhà văn của gia đình. Ây là ở một đám cưới, người bác cả của tôi giới thiệu, cháu tôi là nhà văn. “Cháu tôi là nhà văn”, là một điều rất quan trọng, bạn nào ở đây viết lách hẳn sẽ có cảm nghĩ như tôi. Người nói cũng đã đi qua một cánh cửa nào đó để đến câu nói ấy. Khi những người thân của bạn công nhận và tự hào về việc bạn làm nhà văn, làm nghệ sỹ, hoặc làm bất cứ nghề gì sáng tạo lạ lùng trong mắt đời thường… đó mới là lúc bạn nhìn thấy ngọn hải đăng trong công việc của mình. Làm nhà văn của tiki và shopee, làm nghệ sỹ của Youtube và LikedIn… chưa và sẽ không bao giờ quan trọng bằng làm nhà văn hay nghệ sỹ của mọi người xung quanh.
Tôi đã viết đầy đủ như thế, đúng y từng chữ trong thư điện tử, trước khi xoá nó đi và quyết định trả lời – một câu hết sức dễ nói – rằng hạnh phúc của tôi là bạn đọc.
***
Đoạn viết cuối cùng này dùng làm vĩ thanh.
Đọc lại Người lái đò Sông Đà, thấy Nguyễn Tuân dùng lại nhiều hình ảnh của các quyển cũ. Nhất là những con sóng hất hàm hỏi thuyền khai tên tuổi, nhất là tiếng tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa . Tức là những sáng tác trước như đã tích luỹ và bao quát đủ mọi tiềm lực để lôi ra dùng. Thế nên cũng có thêm cảm giác là việc viết cái tuỳ bút Sông Đà đó hơi dễ quá, và chắc là dễ chọn để cho vào sách hơn cả, vì đề tài.
Tiếng còi xúp-lê của xe lửa đã có trong Tàn đèn dầu lạc và Lư đồng mắt cua, thi thoảng lại lướt qua trong mấy đoạn đoản thiên in báo khác. Tiếng còi này là hình ảnh tóm gọn của hai thứ: lịch trình, những chuyến đi, một thứ Nguyễn Tuân ghét còn một thứ thì rất yêu. Mặt khác lại là dấu hiệu của thứ máy móc vô tình làm ông vừa cáu tiết vừa buồn cười, trong suốt cả một cuộc đời chung đụng dây dưa với phần lớn những người lôi thôi không có tài cán. Nhưng nó lại hay vang lên trong lúc đêm tàn giao canh, đánh thức một cái gì đó. Thường là để khựng lại lúc mà chính nhà văn bị câu văn của mình cuốn đi, lúc tâm trí và giác quan tự do cứ lọ mọ và say sưa đi dạo bộ dưới nền của đời sống để mà nhìn thấu hoặc lảng tránh. À, không phải sự thấu tỏ mà là chính sự tảng lờ của Nguyễn Tuân mới đúng là nghệ thuật và có khi đúng tính khí của ông cũng nên: nếu đã phải tả cái hiện hình mà không vừa mắt thì tốt nhất là cứ đi lòng vòng quanh đường diềm của nó, rồi đổ vấy cho nó một liên tưởng nào đấy. Không giấu một nụ cười vu khống và thờ ơ.
Tiếng còi phản đối ý định thoát li khôn khéo và nhiều khi thúc giục văn chương chú ý đến mấy điểm lõm rất kiểu giao thời của xuân hạ thu đông trong một cách nhìn chia thế giới và thực tại làm tư.
Suốt một thời thanh xuân, tôi cũng thích những cái còi hú, hoặc đèn đỏ nhấp nháy của các nhà ga và chuyến xe đêm. Đẹp nhất là các chặng ga xuyên núi ở Vân Nam, Trung Quốc. Khi động cơ đã hí hửng lăn bánh và chiếc hoả xa chết nhát mới bắt đầu thử nhích lên một tí xem sao, không hiểu sao tôi thường có trong tâm trí một tiếng kèn Trombonne trong các hành khúc, vừa sến sẩm mà vừa uy nghiêm của hiến binh. Lúc đấy tha hồ mà nghĩ ngợi linh tinh về tính chất phiêu lưu của sự sinh tồn và cũng thấy là cuộc đời không nhất thiết cứ phải có ý nghĩa gì đấy, và có thể đi đến chỗ nhận ra rằng “tình yêu” và “chủ nghĩa thực dân” là hai thứ hoàn toàn giống nhau.
Đức Anh Kostroma