
Một chuyện ngắn về chuột – Đoàn Nguyễn Anh Minh
Một chuyện ngắn về chuột
1.
Trong cái cách chúng để sống, và trong thành phần của mỗi bữa ăn chúng lựa, không thể không chứa tên một sinh vật nào đó. Ừ, tôi đang nói về loài người, không nói về thiện hoặc ác, việc nên làm hay không nên làm. Nhưng chúng ám ảnh đến độ, gần như, không một sinh vật nào thoát khỏi quy luật đó, cổ chí kim. Làm tình và sinh sản. Mệt mỏi trong việc giết hại và lớn lên. Sống bằng máu hoặc nhựa của loài khác và không có một lời biên hộ nào cho nổi. Thay vì thế, mình hãy cảm ơn, cảm ơn thượng đế đã ban chúng con một bữa ăn ngon lành mỗi ngày, cảm ơn từng sinh vật một đã vì tôi mà không còn trên cõi đời này. Không, đó không phải lời bà tôi nói. Cảm ơn, cảm ơn và cảm ơn. Chúng, hay là ta? Có rất nhiều lời cảm ơn như thế trên đời.
Trong chiếc buồng được ngăn với thế giới bên ngoài bằng cánh cửa sắt lạnh ngắt. Một miếng vải mềm bằng bông trơ trọi nằm ngổn ngang dưới đất, hai bộ áo liền quần xơ xác, một chiếc gối cũ kỹ có độn đầy chấu bên trong, và một vòi hứng nước, một chiếc gương đã bị ai đó ở đây trước, đánh một dấu x thật to tướng ngay giữa.
Tôi luồn qua một chiếc lỗ, ai đó ở đây trước rồi đến lượt tôi, đã đào thông chiếc buồng ấy với một căn phòng vệ sinh. Chỗ đó luôn đầy cứt và các bạn chuột cống của tôi thì dùng chung một đường với tôi, tìm đường sống và cũng để tìm đường chết ngay trong cái lỗ đó. Đôi khi trong lúc trườn thẳng lối về phía phòng vệ sinh. Tôi lại đặt xác một bạn chuột trên hai bàn tay. Dù bạn đã bốc mùi từ lâu, nhưng tôi muốn bạn có một nơi để yên nghỉ. Ngay cả khi, tôi đang luồn cúi hay bỏ chạy khỏi cái gì, cũng không vội gì mà không thực hiện nghi lễ đó.
Cảm giác có ai đó luôn bám mình thật dai dẳng. Tôi đã chôn xong bạn chuột trong khu vườn của gã hàng xóm to béo bự. Gã béo, rất béo. Nhà gã kinh doanh thịt chuột. Chiên, xào, luộc, đủ loại cách chế biến và cách ướp. Chỉ có tôi biết một bí mật. Tôi hay giúp gã làm vườn. Không hiểu sao, tôi rất ngại để nói ra tên gã đó. Một ngày mà không bị tiếng gõ cửa của gã làm phiền, đó là một ngày may mắn. Không phải ngày nào gã cũng đến gõ vào cái cửa sắt lạnh đó. Nhưng còn may kẻ muốn tìm tôi là gã.
2.
Tôi nhớ thế này, những con chuột thường không nằm trong những câu chuyện hay lời răn có hậu trong kinh thánh.
“Cảm ơn,” tôi lẩm bẩm, như một điệu thần chú vô nghĩa mà tôi đã nói cả trăm, cả ngàn lần. Tôi đặt xác chuột xuống một lỗ hổng trên mặt đất. Như thể đến chết đi, cuộc sống ở phía bên kia của chú vẫn là chỉ là trườn. Nhưng dù trườn bao xa, dù cố gắng đến thế nào, tôi cũng luôn quay lại chốn này.
Tôi đứng dậy, có lẽ, có thể nói rằng tôi đã luôn ở đây suốt phần đời của mình, hoặc đây cũng chưa bao giờ là nơi tôi thực sự đến. Trong căn phòng chật hẹp, ánh sáng u ám đổ vào từ khung cửa sổ nhỏ, tôi đến đây như một tay giám mục, tự giám sát lấy đời mình, vậy là tôi đã đến hay tay giám mục đó mới là người đến kia? Còn tôi vốn còn bỏ lại chính tôi đâu đó trong cái bóng đang rập rờn lên mảng tường đổ nát và xám ngắt. Từng con cừu một được tôi vào mỗi đêm, đến trước khi cặp mắt muốn mỏi nhừ không phải vì mệt mà vì lạnh, trong số đó có lẽ, có một con nào đó là tôi mà cũng là tay bán thịt chuột kia, những bạn chuột.
3.
Mỗi ngày trôi qua, tôi đều đứng ngay cạnh viên gạch thứ tám (từ dưới đếm lên), bức tường ngay đối diện với chỗ mình nằm, lắng nghe những âm thanh vọng lại từ phía khu vườn. Tiếng xì xào của những nhành cỏ dại, tiếng động cơ mài mòn của gã bán thịt chuột. Một ý nghĩ vu vơ len lỏi vào đầu: tôi và lũ chuột kia có gì mà khác nhau đâu? Chúng tôi đều sống trong vòng quay của sự vây bắt và trốn thoát, đều biết mùi đất ẩm, hơi lạnh bám vào da thịt, và, trên tất cả, là nỗi sợ một kẻ săn đuổi.
Một hôm, khi đang chôn xác chuột dưới lớp đất lún cũ, bóng gã xuất hiện ngay phía sau tôi như một đám mây nặng nề, sẫm màu. Đôi mắt gã soi mói tôi và lỗ hổng nhỏ. Mày đang làm gì vậy? Gã hỏi, như thể câu hỏi đó chưa bao giờ được hỏi, và cũng như thể tôi chưa bao giờ ở đây. Nhưng câu hỏi ấy không nhằm tìm hiểu, mà chỉ là một dấu hiệu, nhắc tôi nhớ tới vị trí của mình.
Chỉ là một nghi lễ. Tôi đáp, giọng nói gần như không thuộc về tôi nữa, tựa hồ nó đang vọng lên từ dưới lòng đất sâu hơn là từ trong cuống họng. Gã cười, một tiếng cười khàn đục như tiếng cửa sắt hoen gỉ kẽo kẹt. Nghi lễ? Gã nhại lại, và tôi không thể xác định gã có hiểu điều tôi đang nói hay không.
Từ sau lần đó, ít nhất là trong vài tuần đổ lại, tôi không hề thấy gã xuất hiện đằng sau lưng mình như vậy lần nào nữa. Cánh cửa sắt lạnh ngắt vẫn đứng sừng sững, và tôi cảm thấy như bị nuốt chửng bởi sự lạnh lẽo. Tôi vẫn tiếp tục nghi lễ, nhưng những lần sau này, tôi để ý thấy đôi tay mình bắt đầu run rẩy khi cầm phải xác chuột. Chăng tôi đã thấy một hình ảnh gì đó trong ánh mắt của từng con chuột đã chết ấy? Một ý nghĩ mới vừa nhen nhóm đây thôi: nếu tôi cũng là một con chuột, vậy ai sẽ là người chôn xác tôi đây?
4.
Tôi quyết định đào một lỗ nhỏ trên bức tường, chỉ vừa đủ để một con chuột luồn qua. Mất cả buổi, bàn tay lấm lem, và gạch vụn đầy dưới chân, cuối cùng cũng có một khoảng hở đủ lớn.
Vừa lúc tôi đào xong, một con chuột nhỏ, lông xám xịt, xuất hiện bên kia lỗ hổng. Đôi mắt ngây dại của nó nhìn tôi chằm chằm. Tôi nhìn lại và cam chịu. Nó bò từng chút một lại gần chỗ tôi đang ngồi, chậm chạp và cúi cúi cái đầu nhìn xung quanh như đang tìm vật gì. Một tiếng thì thầm vẳng lên, giống như tiếng của chính tôi vọng lại từ trong lỗ sâu đen kịt đó.
Còn bao nhiêu cái lỗ nữa?
Con chuột đã biến mất từ lúc nào. Chỉ còn tôi, bức tường, và tiếng vang âm u đó. Tôi lại đứng sát vào viên gạch thứ tám, lắng nghe, tay nắm chặt, nhưng tiếng đó rồi cũng im bặt.
5.
Đêm hôm ấy, khi vừa chợp được một chút, tiếng gõ cửa sắt lại vang lên. Hai mắt tôi mở, và thấy gã bán thịt chuột đứng che ngay phía bức tường đối diện, bóng tối gần như đã che hết nửa khuôn mặt gã, chỉ có đôi mắt thì sáng lên, chăm chú nhìn tôi.
Còn bao nhiêu cái lỗ nữa?
Tôi không trả lời. Gã cười, như thể hiểu rõ, rồi bỏ đi. Nhưng trước khi tiếng gì như một cánh cửa sắt đã được đóng lại, tôi nghe thấy tiếng rầm rì của gã một lần nữa, lời nói của gã vang vọng trong đầu tôi như tiếng chuông, đến mức bồn chồn khó chịu, tôi cứ ngỡ trong căn buồng có giấu một chiếc điện thoại không được gác lại đàng hoàng sau khi nghe.
6.
Tôi bất thần bật dậy, đôi chân như tự tìm đường tiến về phía lỗ hổng trên bức tường. Đưa tay qua lỗ, tôi cảm thấy nền đất lún mềm, lớp bụi bám dày đặc như một lớp mền bao phủ điều gì đó chôn sâu từ lâu. Đôi tay tôi run run, chỉ dừng khi cào vào lớp đất và chạm phải một bề mặt lạnh cứng, thô ráp.
7.
Đó là một chiếc hộp nhỏ, hình dạng bất định, như thể nó đã bị đè nát bởi hàng lớp đất và thời gian. Tôi kéo nó ra, từng chút một, cảm giác như một kẻ phạm tội bị bắt quả tang, ánh mắt tôi đảo quanh căn phòng, sợ rằng cái bóng đen của gã bán thịt chuột sẽ xuất hiện bất kì lúc nào. Nhưng ngoài kia, chỉ có bóng đêm, và cái lạnh âm u như bức tường chật chội bao bọc lấy tôi. Cầm chiếc hộp trên tay, tôi thấy trong lòng trĩu nặng, nặng như một bí mật mà mình không tài nào hiểu hết.
Khi tôi mở hộp ra, bên trong chỉ có một tấm gương nhỏ, dày đặc bụi bẩn đến mức không thể phản chiếu nổi gương mặt nhạt nhòa của mình. Thành ra khuôn mặt tôi là một cái gì đó thật xa xăm và méo mó. Tôi đã quên mất câu trả lời từ lâu. Từ khi bắt đầu nhớ lại từng hành vi một của mình giống thế này, trong suốt những ngày vừa qua, tôi thấy việc tìm thấy chiếc hộp này cũng không còn quan trọng. Giống như bị gã bán thịt chuột bất ngờ mò lại từ đằng sau và tra hỏi. Tôi bỗng nhiên cũng không tài nào nhớ nổi mình đã mò đến căn buồng này và sinh sống ở đây từ bao lâu.
8.
“Cảm ơn,” tiếng gã bán thịt chuột thì thầm, giọng nói ấy nói nửa như tan biến vào khoảng không, nửa như còn lơ lửng đây như ánh đèn vàng khè từ căn phòng vệ sinh luồn lách qua cái lỗ. Tôi giật thót, khi chuẩn bị đặt chiếc hộp xuống, rồi lập tức lùi lại, đảo đảo mắt nhìn quanh. Không một ai hay con chuột nào đang ở đây cả, nhưng tiếng thì thầm ấy vẫn luôn văng vẳng, từng hồi vọng lại trong đầu.
Cảm ơn.
Cảm ơn.
Cảm ơn.
Đoàn Nguyễn Anh Minh.