Yukio Mishima: cuộc phỏng vấn cuối cùng (trích)

Yukio Mishima: cuộc phỏng vấn cuối cùng (trích)

Hai cuộc phỏng vấn, hai thời kỳ, hai góc nhìn đối lập nhằm soi rọi đôi chút ánh sáng vào tiểu sử, tư duy và sáng tác văn chương của Yukio Mishima. Một trong những văn sĩ Nhật Bản đương đại quan trọng bậc nhất, một tác giả được sùng mộ, một nhân vật gây tranh luận và đầy ẩn khuất, người mà nhiều thập kỷ sau khi tự tử, vẫn dấy lên những luồng ái mộ và chỉ trích đối chọi nhau xoay quanh con người và lối sống của ông, đối lập hoàn toàn với sự nhất trí của dư luận về vẻ mỹ cảm đầy ám ảnh và phẩm chất tuyệt vời trong các tác phẩm văn chương của ông.

“Những lời cuối cùng” của Yukio Mishima tập hợp hai trong số những cuộc phỏng vấn đầy đủ nhất mà Mishima đã thực hiện. Cả hai đều được tiến hành bởi hai nhà phê bình văn học Nhật Bản danh tiếng và uy tín nhất, từ những lập trường đối nghịch nhau: Takashi Furubayashi, vốn theo học thuyết Mác-xít, người nghiêm khắc chỉ trích những lập trường chính trị của Mishima, nhưng lại vô cùng bén nhạy trước vẻ mỹ cảm và chiều sâu phức tạp trong các sáng tác văn chương của ông, và Hideo Kobayashi, một nhà ái quốc, có phần tương đồng hơn về chính kiến với văn sĩ, và cũng bị mê hoặc bởi nghệ thuật tự sự của ông.

Cuộc phỏng vấn dưới đây của Furubayashi là cuộc phỏng vấn cuối cùng mà Mishima thực hiện, vài ngày trước khi ông tự vẫn theo nghi thức vào ngày 25 tháng 11 năm 1970. Cuộc phỏng vấn của Kobayashi được tiến hành khi Mishima, ở tuổi ba mươi hai, đã là nhà văn được đọc nhiều nhất ở Nhật Bản và có tầm ảnh hưởng quốc tế lớn nhất. Hai cuộc phỏng vấn, chưa từng được công bố bằng tiếng Tây Ban Nha, từ những lập trường khác nhau, đã hé lộ vô số khía cạnh về cuộc đời, tư tưởng và quá trình sáng tạo nghệ thuật của một trong những tác giả vĩ đại và gây tranh cãi nhất của văn học thế giới.

 

PHỎNG VẤN YUKIO MISHIMA (trích dịch)

Tựa gốc: Bi no Katachi. Saigo no Kotoba

Yukio Mishima & Hideo Kobayashi & Takashi Furubayashi, 2015

Bạch Dương chuyển ngữ từ bản tiếng Tây Ban Nha của Carlos Rubio, các đoạn sau đây nằm ở phần đầu phỏng vấn, gồm về Cái chết và ái tình, quan hệ giữa võ và văn, quan điểm của Mishima về Thiên hoàng. Mishima cũng nói về Georges Bataille và M. De Sade.


CHẾT VÀ ÁI TÌNH

Furubayashi:

Có lẽ vì tôi thuộc số những người khó hiểu được điều đó, nên tôi muốn nhấn mạnh vào chủ đề này. Tôi đang nói đến mỹ học của cảm xúc. Ở ngài với tư cách là một nhà văn, thưa ngài Mishima, luôn có một xu hướng khao khát sự thuần khiết. Đó là, chúng ta nên nói thế nào nhỉ?, một khuôn mẫu Mishima thực sự. Ví dụ, nhân vật chính của El rumor del oleaje (Tiếng triều dâng), tác phẩm được đề cập lúc nãy, và cả nhân vật chính của Los sables (tạm dịch: Những thanh kiếm) trong câu chuyện cùng tên là những chàng trai trẻ chưa từng đọc một cuốn sách nào, chỉ có thân thể tráng lệ của họ được tạc như những bức tượng Hy Lạp. Viên trung úy đóng vai chính trong truyện ngắn “Patriotismo” (tạm dịch: “Lòng ái quốc”), và ngay cả hình ảnh người vợ xinh đẹp trong bộ trang phục trắng tinh khôi sẵn sàng theo chồng tự vẫn, đều có tầm nhìn về hoàng gia, về quốc gia, về lá cờ của trung đoàn. Còn có hình ảnh của thiên hoàng được mô tả trong El clamor de los caídos (tạm dịch: Tiếng gào của những người đã ngã xuống) cưỡi trên một con chiến mã trắng, từ lỗ mũi nó thở ra hơi thở cũng trắng xóa và móng guốc nó dẫm lên tuyết trắng trên đỉnh đồi… Tương tự, các truyện ngắn trong giai đoạn đầu của ngài thường được đặt trong bối cảnh một biển xanh thẳm, với những đám mây trắng tinh, không thiếu tuyết trắng tinh khôi quen thuộc. Nhân tiện, ngài đã viết một cuốn tiểu thuyết có tựa đề chính xác là La noche inmaculadamente blanca (tạm dịch: Đêm trắng tinh khiết). Tóm lại, dù là nhân vật hay phong cảnh, tất cả đều luôn được bao bọc trong những hình mẫu của sự thuần khiết. Tôi không nghĩ rằng đặc điểm này có thể được giải quyết đơn giản bằng lập luận rằng đó là một vấn đề về sở thích. Nhưng điều tôi muốn nói là: ngài biết rõ rằng trong thế giới mà ngài mô tả bằng những hình ảnh của sự trắng trong và thuần khiết này cũng ẩn chứa sự tàn khốc và bạo lực, nhưng ngài, thưa ngài Mishima, đã cố tình phớt lờ sự thật này. Ý kiến của tôi là ngài đang tự lừa dối mình và lừa dối độc giả khi khẳng định rằng sự loại trừ giả tạo đó đại diện cho sự trở về tuổi thiếu niên mà ngài vừa đề cập. Không chỉ vậy: một sự loại trừ như vậy có thể hoạt động được chừng nào nó còn nằm trong giới hạn của một sự đánh giá mỹ học cá nhân nảy sinh từ thế giới nội tâm. Nhưng vấn đề trở nên phức tạp khi quan điểm của nhà văn dừng lại ở việc đánh giá các sự kiện xã hội và đưa ra các phán xét giá trị lịch sử qua lời của các nhân vật. Lấy một ví dụ. Như ngài mô tả, sự biến “nhị-nhị-lục”[Nhị nhị lục sự kiện (Sự kiện 26 tháng 2), âm mưu đảo chính tại chính quốc Nhật Bản của sĩ quan Lục quân], mà ngài rất thích, trở thành, hơn bất cứ điều gì khác, một cuộc nổi dậy diễn ra trong bối cảnh một phong cảnh tuyết trắng tinh khôi. Theo thời gian, tuyết đó tan ra, như lẽ tự nhiên, và trở nên lầy lội, nhưng hình ảnh này hoàn toàn không lọt vào tầm nhìn của các phong cảnh văn học của ngài, thưa ngài Mishima. Tương tự, khi ngài mô tả các sĩ quan nổi dậy, ngài chỉ làm nổi bật những cảm xúc cá nhân của họ, mà ngài pha trộn với vẻ đẹp của tuyết trắng. Dường như ngài không hề nghĩ đến những con người đã ngã xuống vì sự kiện đó. Tại sao những câu chuyện của ngài luôn như vậy? Thành thật mà nói, tôi không thể hiểu được. Tôi thừa nhận rằng việc gợi lên sự thuần khiết là rất tốt, nhưng tại sao không ít nhất cũng nhìn vào các nạn nhân?, tại sao không thử viết một tác phẩm cũng thể hiện sự nhạy cảm đối với họ?

Mishima:

Việc tôi bị ám ảnh bởi “vẻ đẹp của cảm xúc”, như ngài nói, có lẽ liên quan đến ái tình. Năm 1955, tôi đã gặp Georges Bataille. Tôi cho rằng đó là nhà tư tưởng Âu châu mà tôi cảm thấy tâm đầu ý hợp hơn cả. Tôi thấy rất thú vị công thức mà Bataille đưa ra về mối quan hệ mật thiết giữa cái chết và ái tình, cũng như các khái niệm của ông về “sự cấm kỵ” và “sự thường nhật được giải phóng bởi cấm kỵ”. Trong dân tộc học Nhật Bản, chúng ta phân biệt các khái niệm “thanh sạch” và “ô trược”, theo tôi, hoàn toàn tương ứng với hai khái niệm của Bataille. Theo cách này, cũng như không có thanh sạch thì không có ô trược, và ngược lại, không có cấm đoán thì không có sự thường nhật được giải phóng bởi nó. Bây giờ, vì cuộc sống hiện tại, bị ảnh hưởng bởi chủ nghĩa tương đối của niềm tin của chúng ta, đã không còn trải nghiệm sự thanh sạch tuyệt đối, nó chỉ biết đến “sự ô trược”, tức là sự thường nhật hay đời thường. Từ chủ nghĩa tương đối ảnh hưởng đến xã hội của chúng ta, không có gì tuyệt đối có thể nảy sinh. Và chừng nào không có những điều tuyệt đối, ái tình không thể tồn tại. Theo Bataille, ái tình chỉ thể hiện bộ mặt thật của nó khi tiếp xúc với cái tuyệt đối.

Furubayashi:

Trong trường hợp của ngài, thưa ngài Mishima, dường như cái tuyệt đối ngay lập tức tiếp xúc với hình ảnh của thiên hoàng. Do đó, ái tình trong trường hợp của ngài bị tước bỏ đi tính dục và cuối cùng bay lên tầm của các khái niệm trừu tượng. Nhưng, nếu tôi nhớ không lầm, Bataille đã xây dựng lý thuyết kỳ lạ này của mình trong cuộc đấu tranh chống phát xít, mà không gì khác hơn là hoạt động cụ thể của một sự thường nhật.

Mishima:

Trong trường hợp của tôi, tôi đã được Bataille soi sáng, nhưng tôi không phải là Bataille. Bên trong tôi, vẻ đẹp, ái tình và cái chết đều nằm trên cùng một đường thẳng. Sau đó là sự tàn khốc, đó là một thực tế khách quan và cụ thể, hoặc ít nhất nó được coi là như vậy. Nhân tiện, Bataille, tuy nhiên, không coi sự tàn khốc là một cái gì đó khách quan và cụ thể. Tôi nghĩ ngài cũng đã thấy điều đó: trong một tác phẩm của Bataille có bức ảnh của những tên tội phạm bị đánh bằng roi để moi lời thú tội. Ở một số người, có thể thấy da thịt ở ngực đã bị xé toạc để lộ xương sườn, những người khác đã bị cắt gân đầu gối. Tuy nhiên, những người bị tra tấn này đang cười, và họ làm vậy không phải vì đau đớn, tất nhiên, mà vì họ đã bị cho dùng thuốc phiện. Bataille bình luận rằng trong những hình ảnh tra tấn này có đỉnh điểm của ái tình. Nói cách khác, nhà văn Pháp này đã thực sự dồn hết tâm sức để tìm ra cái tuyệt đối tối đa trong sự tàn khốc ở một mức độ cũng tối đa. Và đó là vì ông tin rằng con người ngày nay chỉ có thể được cứu rỗi nếu phục hồi được toàn bộ sự sống nhờ vào việc thực hiện những hành động như vậy. Tôi đồng ý với Bataille. Nhân tiện, ngài nghĩ rằng màu trắng tinh khôi mà tôi sử dụng trong các tác phẩm của mình là một ý tưởng trừu tượng, trong khi sự tàn khốc là một cái gì đó khách quan và cụ thể, phải không?

Furubayashi:

Đúng vậy.

Mishima:

Vâng, tôi không nghĩ vậy. Nếu màu trắng là một ý tưởng trừu tượng, thì sự tàn khốc cũng vậy. Nếu màu trắng là khách quan và cụ thể, thì sự tàn khốc cũng khách quan và cụ thể. Tôi không thể tưởng tượng hai thứ đó trong cùng một chiều không gian. Ai đó có ác ý có thể nghĩ: “Người không biết đến nghịch cảnh, không biết đến chiến tranh, không biết đến nghèo khổ, thì chắc chắn phải nhìn mọi thứ một cách hời hợt”.

Furubayashi:

Vâng, rất có thể.

MỘT THỜI HIỆN TẠI COI THƯỜNG “SỨC MẠNH”

Mishima:

Tuy nhiên, thưa ngài Furubayashi, tôi, theo cách của mình, đã thấy chiến tranh là gì. Ví dụ, khi tôi được huy động để làm việc trong …công tác tại Sở Lao vụ, các đồng nghiệp của tôi đã ngã xuống dưới làn đạn liên thanh của máy bay địch. Tôi đã thấy, như những con cá khi mất máu, từ thân thể họ máu tuôn ra khắp nơi. Vâng, tôi biết tất cả những điều đó. Dĩ nhiên không nhiều như trong các trang của Heike monogatari (tạm dịch: Truyện kể Heike), nhưng tôi có thể nói rằng tôi đã chứng kiến cảnh người ta chết đi trong khoảnh khắc họ ít ngờ tới nhất và đã quan sát xác của họ. Tóm lại, tôi không thể khẳng định: “Vì tôi đã thấy một trăm xác chết còn anh chỉ thấy ba, nên kinh nghiệm chiến tranh của tôi sâu sắc hơn”, cũng không thể nói: “Vì tôi nghèo hơn anh, nên kinh nghiệm sống của tôi sâu sắc hơn”.

Tôi nhớ lại bây giờ đoạn văn trong một cuốn sách của Kamo no Chōmei, nơi ông kể về những người chết bên bờ sông. Tôi thấy những tình cảm của Chōmei ấy thật tuyệt vời. Sự trừu tượng của con số…! Chỉ cần quan sát một xác chết thật lâu nếu chúng ta muốn nắm bắt bản chất của một điều gì đó dưới lăng kính của sự tàn khốc: Tanizaki đã làm như vậy thông qua một cái nhìn không trong sạch. Và Chōmei cũng đã làm như vậy khi ông bắt đầu đếm từng người chết một.

Furubayashi:

Đó có phải là lời khẳng định của một người quan sát thuần túy không? Có phải đó là điều ngài muốn nói? Trong Truyện kể về một chuyến đi trong gió mưa, nhà thơ Matsuo Bashō  đã để ý thấy bên vệ đường có một đứa trẻ bị bỏ rơi đang khóc, nhưng ông đã đi qua và nói: “Hãy khóc cho nỗi bất hạnh của con, vì đó là định mệnh của con”. Có phải ngài đang đề cập đến những tình cảm như vậy không?

Mishima:

Vâng, tôi nghĩ rằng tình cảm giúp đỡ kẻ yếu là một điều rất đẹp. Nếu tôi ở vào vị trí của Bashō, có lẽ tôi đã không hành xử với một thái độ lạnh lùng đến thế. Nhưng nếu tôi dừng lại để suy nghĩ về nhiệm vụ của mình, tôi cũng không cảm thấy được kêu gọi để cứu đứa trẻ đó. Sẽ luôn có ai đó sẵn lòng giúp đỡ những người yếu đuối. Tức là, sự yếu đuối phải được để yên như nó vốn có. Đúng hơn, có thể khẳng định rằng hiện nay chúng ta đang sống trong một thời đại mà chính sức mạnh mới là thứ bị đối xử tệ bạc. Vâng: do những lời chê bai mà sức mạnh phải nhận trong thời đại của chúng ta, đạo đức của những người khao khát trở nên mạnh mẽ bị coi thường. Vì vậy, tôi không thể nghĩ đến điều gì khác ngoài sự tái sinh của sức mạnh. Dù họ có coi tôi là kẻ cứng đầu đến đâu, tôi cũng sẽ không ngừng khẳng định rằng sứ mệnh của tôi trong cuộc đời này là sự tái sinh của sức mạnh.

Furubayashi:

Và điều gì sẽ xảy ra nếu, với cái giá là bảo vệ sức mạnh, những người yếu đuối lại bị xúc phạm?

Mishima:

Tôi đã quá mệt mõi khi nghe cái ý tưởng, vốn là điều thông thường từ thời hậu chiến đến nay, rằng khủng bố là xấu và đã giết chết người ta. Trong Cách mạng Nga và cả trong Cách mạng Pháp, họ đã đồ sát tất cả các quý tộc. Nếu những người cách mạng bị hỏi: “Này, các người! Các người không nghĩ đến tất cả những gì Maria Antoinette đã phải chịu đựng khi bị giết sao?”, liệu dòng chảy cách mạng có dừng lại không? Về phần mình, nếu tôi có thể giúp đỡ người yếu, tôi sẽ làm. Ngài có biết tại sao tôi ngưỡng mộ các sĩ quan đã nổi dậy trong sự biến “nhị-nhị-lục” không? Bởi vì họ không đổ máu của bất kỳ phụ nữ hay trẻ em nào. Tôi nghĩ điều đó thật tuyệt vời. Giết phụ nữ hay trẻ em là bẩn thỉu. Trong các cuộc chiến tranh bây giờ, như cuộc chiến ở Việt Nam này, người ta giết người một cách bừa bãi, không quan tâm đó là phụ nữ hay trẻ em. Điều đó thật bẩn thỉu, và tôi ghét sự bẩn thỉu. Nhưng khi chúng ta nói về một hành động đẹp, dù đó là khủng bố, tôi vẫn chấp thuận. Con người phải mạnh mẽ.

Furubayashi:

Chà, tôi có cảm giác như đang nghe một điều gì đó từ triết lý của thời Chiến Quốc của đất nước chúng ta!

Mishima:

Dĩ nhiên rồi! Đó là cảm giác của cái mà Phật giáo gọi là Thời Mạt Pháp. Trước mắt Kamo no Chōmei [Một nhà thơ cổ điển Nhật thế kỷ 12], xác chết chất đống và rải rác khắp nơi đến nỗi ông không thể làm gì khác ngoài việc bắt đầu đếm chúng…

MỐI QUAN HỆ GIỮA “VÕ” VÀ “VĂN”

Furubayashi:

Đó có phải là con đường võ và văn của ngài không? Tôi không thể không nghĩ rằng mặc dù Mishima samurai thừa nhận khủng bố, nhưng Mishima nhà văn thì không nên làm vậy…

Mishima:

Tôi tin rằng con đường của kiếm và bút, xét cho cùng, không nên rẽ đôi. Đó là một chủ nghĩa nhị nguyên vô cùng khó thực hiện. Võ và văn có thể đi những con đường riêng biệt tạm thời, nhưng cuối cùng chúng phải hội tụ trên cùng một con đường. Trong hoàn cảnh hiện tại của tôi, đôi khi tôi rèn luyện riêng về võ, đôi khi về văn. Ví dụ, khi tôi cống hiến cho một cái gì đó như một phong trào tư tưởng và các tác phẩm của tôi không nhận được ảnh hưởng từ nó, dù là nhỏ nhất, cảm giác tôi có được là sự thất bại. Khi tôi viết một cuốn tiểu thuyết, khi tôi bắt đầu viết nó, tôi muốn dồn hết tâm huyết vào đó với tất cả năng lượng tôi có thể lấy ra từ bên trong mình. Ngược lại, nếu tôi tham gia vào một hoạt động phi văn học, như một phong trào tư tưởng – và không nhất thiết phải là một điều gì đó quan trọng nhất -, cảm giác tôi có được là cống hiến hết mình cho đến chết và, xét đến tuổi tác của tôi, không để bị những người trẻ vượt qua.

Furubayashi:

Đó hẳn là lý do không dấn thân vào chính trị, lý do không làm như nhà văn Shintarō Ishihara, người đã trở thành một nghị sĩ. Có phải vậy không?

Mishima:

Vâng, tôi nghĩ vậy. Vì tôi ghét tất cả những gì không trong sạch, tôi sẽ không muốn nhận bất kỳ đồng lương nào từ Đảng Dân chủ Tự do. Nếu tôi nhận được bất kỳ khoản tiền nào từ họ, từ các chính trị gia, tất cả những gì tôi muốn nói sẽ tan thành mây khói. Nói một cách rõ ràng: vào lúc này tôi là một sinh vật phi chính trị. Tất cả những gì tôi muốn làm bây giờ là một phong trào vì công lý. Và tôi nói điều này khi biết rằng có lẽ ai đó sẽ cười. Mục tiêu của tôi là thúc đẩy công lý trong thế giới hiện tại. Lối sống của Yoshida Shōin. Thực vậy, tôi không nghĩ rằng có một cách nào khác để thúc đẩy công lý.

Furubayashi:

“Hội Khiên” của ngài sẽ thúc đẩy nó sao?… Tôi không quan tâm đến các phong trào tinh thần, nhưng tôi nghĩ rằng cái gọi là con người không có lối thoát nào khác ngoài việc sống theo những gì mình đã chọn và trung thành với ý chí của mình. Nếu, kết quả là, một cuộc cách mạng xã hội đạt được, tôi nghĩ thế là đủ. Điều tôi không thích là người khác áp đặt công lý của họ lên tôi.

Mishima:

Vấn đề đối với tôi là công lý. Tôi không quan tâm người ta nói gì.

ÁI TÌNH NHƯ MỘT YÊU CẦU CƠ BẢN CỦA CÁCH MẠNG

Furubayashi:

Chuyển sang chủ đề khác, thế giới văn học hiện tại đang ngập tràn những tiểu thuyết về ngoại tình và tình dục. Đối với lương tâm của mọi nhà văn, tình dục dường như được xem như một yếu tố phá hủy trật tự gia đình, hay đúng hơn, như một yếu tố đối kháng. Ngài cũng đã viết một vài tác phẩm theo hướng này. Tôi nghĩ, ví dụ, đến Los titubeos de la virtud (tạm dịch: Sự do dự của đức hạnh), mặc dù nó đúng hơn là một cuộc điều tra về mỹ học và sự bất tử chứ không phải về đời sống tình dục. Ngoài ra còn có Sed de amor (tạm dịch: Khát khao yêu đương), một cuốn tiểu thuyết đơn giản về một niềm đam mê dẫn đến án mạng. Tuy nhiên, chủ đề tội ác vẫn chỉ là phụ và tôi chắc chắn rằng nó cũng không phải là mối quan tâm trung tâm của ngài với tư cách là một tiểu thuyết gia. Tôi không thể phủ nhận rằng tôi không đồng ý với xu hướng hiện tại này là đồng nhất tình dục và tội ác như những biểu hiện của sự chống đối hệ thống, mặc dù tôi thừa nhận rằng, ít nhất, chúng không thể được định nghĩa là sự bảo vệ hệ thống. Có vẻ lạ lùng khi ngài, người lên án sự suy đồi của hệ thống hiện tại và dự tính thiết lập một nền công lý xã hội mới, lại không tỏ ra quan tâm đến xu hướng văn học này.

Mishima:

Sơ đồ mỹ-dục-tử, mà tôi đã đề cập lúc nãy, là một khái niệm đòi hỏi yếu tố thứ hai, ái tình, không thể tồn tại ngoài phạm vi của cái tuyệt đối. Về phần châu Âu, ái tình chỉ được tìm thấy trong thế giới của Công giáo. Tôn giáo này có những điều răn nghiêm ngặt mà việc vi phạm chúng cấu thành tội lỗi. Và kẻ có tội, dù muốn hay không, sẽ phải đối mặt với Chúa. Vâng, ái tình là phương pháp thiết lập liên lạc với thần thánh thông qua tội lỗi. Đó là chủ đề của một trong những vở kịch của tôi, Madame de Sade. Vào thế kỷ XVIII, Hầu tước de Sade đã thực hành phương pháp này và ông không làm điều đó chỉ để chống lại hệ thống, tức là, vì một vấn đề có tầm vóc tầm thường như chính trị. Nếu Cách mạng Pháp không được bù đắp bởi tư tưởng của Sade, nó đã không trở thành một cuộc cách mạng thực sự. Tức là, nếu không có một chủ nghĩa bi quan có khả năng phủ nhận hoàn toàn chủ nghĩa lạc quan của một cuộc cách mạng, thì nó không hoạt động. Cũng như nó không hoạt động nếu thiếu một chủ nghĩa thần bí phủ nhận chính chủ nghĩa duy lý của nó. Tóm lại, mọi cuộc cách mạng, nếu muốn hoàn chỉnh, phải tập hợp cả hai khía cạnh. Tuy nhiên, cuộc cách mạng của thời hậu chiến Nhật Bản đã kết thúc bằng việc nghiêng về phía chủ nghĩa duy lý, về phía chủ nghĩa nhân văn, bỏ qua ái tình. Ở một khía cạnh nào đó, nhà văn Hiroshi Noma đã đi đúng hướng, nhưng giữa chừng ông đã lạc lối. Và từ sự lạc lối của mình, ông đã đi đến kết luận ngớ ngẩn rằng ái tình chống lại thiết chế. Tuy nhiên, trong chủ nghĩa tương đối của thế giới hiện tại, ái tình không hơn gì một loại dục tình tự do. Nó không chống lại bất cứ điều gì. Đó là một thứ tình dục không có mối liên hệ nào với cái tuyệt đối. Theo tôi, không có gì xa hơn ái tình thực sự.

Furubayashi:

Cách đây không lâu, tôi đã viết một bài phê bình khá gay gắt về truyện ngắn “Patriotismo” [Lòng ái quốc] của ngài. Nhưng nếu chúng ta xem xét rằng tác phẩm này phù hợp với ý tưởng mà ngài vừa trình bày, thì bài phê bình của tôi hoàn toàn không khớp với logic của ngài.

Mishima:

Lập trường của chúng ta hoàn toàn tách biệt. Theo tôi, chỉ nên nói về ái tình khi con người liều mạng sống và tìm kiếm khoái lạc cho đến chết, qua đó giống như đạt đến cái tuyệt đối từ phía ngược lại. Nếu không có các vị thần, thì phải làm cho họ tái sinh. Và đó là vì không có Chúa thì không có ái tình. Và do cách suy nghĩ này của tôi, tôi đã làm điều không thể để làm tái sinh cái tuyệt đối. Đó là lúc ái tình nảy sinh. Tất cả những điều này có liên quan gì đến tình dục hàng ngày không? Chẳng có gì cả. Giả sử rằng đó là một loại “chủ nghĩa phiếm ái”. Đúng vậy. Sự tìm kiếm này là mục tiêu chính của văn học của tôi.

Furubayashi:

TẠI SAO THIÊN HOÀNG LẠI CẦN THIẾT?

Nếu vậy, và để hoàn thiện mỹ học của ngài, thưa ngài Mishima, cần có một quyền uy tuyệt đối. Vì vậy…

Mishima:

…Hoàng thượng bước ra sân khấu. [Cười.]

Furubayashi:

Đến đây, tôi hoàn toàn không thể đồng ý với quan điểm của ngài. Nếu vấn đề là ý thức mỹ học của văn học, tại sao lại phải xuất hiện một vị thiên hoàng là một thực thể chính trị?

Mishima:

Vâng, cũng không nhất thiết phải là một vị thiên hoàng. Cũng có thể là một vị vua phong kiến. Cần có một lãnh chúa phong kiến cho một cuốn sách như Hagakure. Tôi không nói đến một lãnh chúa phong kiến hay daimyo với tư cách là một nhân vật có thứ bậc trong lịch sử, mà là biểu tượng của hoàng gia. Quan điểm của ngài về hình tượng hoàng gia và của tôi là vô cùng khác biệt. Nhưng ngoài điều đó ra, điều mà tôi căm ghét đến chết là quan niệm về thiên hoàng Nhật Bản đã có trong thời hậu chiến và việc hình tượng hoàng gia Nhật Bản đã được định hình trong Thời Meiji [Minh Trị] theo khuôn mẫu của châu Âu.

Furubayashi:

Thực sự là như vậy. Hình tượng hoàng gia không hơn gì một màn kịch.

Mishima:

Tôi không hoàn toàn đồng ý. Nếu chúng ta tham khảo kỹ lưỡng những lời dạy của Quốc học[31] và theo dõi cẩn thận những biến đổi mà quan niệm về hình tượng hoàng gia đã trải qua trong suốt lịch sử, người ta sẽ nhận ra rằng thực tế không phải như vậy. Có thể là, như ngài nói, là cấu trúc. Nhưng cấu trúc và bản chất của hình tượng hoàng gia là hai điều hoàn toàn khác biệt.

Furubayashi:

Ngài đề cập đến những biến đổi mà quan niệm về hình tượng hoàng gia đã trải qua, nhưng thiên hoàng đã nắm giữ một ý nghĩa chính trị như một biểu tượng của tôn giáo Thần đạo nhiều nhất là cho đến cuối Thời đại Heian [794-1185]. Sau đó, với sự xuất hiện công khai của tầng lớp võ sĩ – các samurai, quyền lực của ngài đã dần suy yếu. Thực tế, việc thành lập Mạc phủ Kamakura [1185-1333] đã khiến thể chế hoàng gia trở thành một quyền lực hoàn toàn trên danh nghĩa.

Trong thời kỳ Tân chính Kenmu [1334], hình tượng hoàng gia đã có một sự phục hồi thoáng qua trên vũ đài lịch sử, nhưng ngay lập tức đã sụp đổ. Cũng trong suốt Thời đại Muromachi [1334-1576], thực tế lịch sử cho chúng ta thấy rằng thiên hoàng chưa bao giờ có ảnh hưởng đến chính trị của đất nước. Đến Thời Tokugawa [1600-1868], hình tượng hoàng gia đã bị kiểm soát tuyệt đối và hoàn toàn bị lu mờ. Và chúng ta bước vào Thời Meiji [1868-1912]. Khi mọi thứ dường như chỉ ra một sự phục hồi thực sự của quyền lực hoàng gia với một chính phủ trực tiếp của thiên hoàng, thì thực tế, và một khi chính phủ của các phiên Satsuma và Chōshu[32] được thành lập, thiên hoàng trở thành một biểu tượng đơn thuần để hợp pháp hóa quyền uy của các phiên đó. Ngài có nghĩ rằng với cái gọi là “Tuyên ngôn Nhân gian” được ban hành vào cuối cuộc chiến, đã có một sự khởi đầu của sự gần gũi giữa thiên hoàng và nhân dân không? Mặc dù, dĩ nhiên, gần đây, với chính sách “bức màn hoa cúc”, ngay cả nút thắt nhỏ của sự tiếp xúc đó cũng sắp tan biến. Về phần mình, tôi không cảm thấy oán giận hay ác cảm đối với thiên hoàng hay bất kỳ thành viên nào của Hoàng gia. Nhưng, đúng vậy, tôi cho rằng nếu thiên hoàng mất đi sự tiếp xúc trực tiếp với nhân dân, thể chế hoàng gia, với tư cách là một phần của hệ thống chính trị, sẽ luôn phải đối mặt với nguy cơ bị các lực lượng chính trị nhất định lợi dụng.

Mishima:

Ngược lại, tôi cảm thấy ác cảm với thiên hoàng với tư cách cá nhân. Và tôi hoàn toàn bác bỏ tuyên bố ông trở thành người thường – hãy gọi như vậy – mà ông đã thực hiện khi chiến tranh kết thúc.

Furubayashi:

Đó không phải là điều mà những người lính đã chết trong tác phẩm El clamor de los caídos (tạm dịch: Tiếng gào những người đã ngã xuống)  của ngài nói khi họ than thở: “Nhưng tại sao thiên hoàng của chúng ta lại trở thành người thường?…”? Theo tôi, “Tuyên ngôn Nhân gian” của thiên hoàng là một điều tốt, mặc dù qua đó bản chất của thể chế hoàng gia đã bị che giấu một cách lừa dối…

Mishima:

Kẻ có tội là Shinzō Koizumi. Tất cả lỗi do ông ta. Ông ta giả dối và là một kẻ phản bội. Nếu hiện nay có khủng hoảng trong thể chế hoàng gia, nguyên nhân là do sự nổi tiếng của thiên hoàng trong dân chúng, một sự nổi tiếng dựa trên ý tưởng rằng thiên hoàng đã dũng cảm và nhờ ông mà chiến tranh đã kết thúc. Nhưng sự nổi tiếng này không có mối liên hệ nào với thể chế hoàng gia. Mặc dù tôi không hề chia sẻ ý tưởng của Takāki Yoshimoto, tôi đã đọc với sự quan tâm bài tiểu luận Lý thuyết về ảo tưởng tập thể [Kyōdo gesō ron] của ông và ông thực sự có lý khi khẳng định rằng thiên hoàng là vị thần của ngũ cốc. Và đó là vì quan niệm về thiên hoàng với tư cách cá nhân là một vấn đề thứ yếu, mọi thứ phải quay trở lại với Nữ thần Amaterasu. Vị quân chủ đang trị vì bây giờ sẽ luôn là vị quân chủ trị vì của thời điểm đó. Không quan trọng con trai của cựu thiên hoàng trở thành quân chủ mới vì, vào thời điểm cử hành nghi lễ daijōe, mọi thứ đều quay trở lại trực tiếp với Nữ thần. Điều mà Shinzō Koizumi đã làm là phá hủy chiều kích tuyệt đối của hình tượng hoàng gia. Sai lầm của ông ta là sai lầm lớn nhất trong việc xây dựng hệ thống hoàng gia của thời hậu chiến. Tôi nghĩ rằng chúng ta đang đối mặt với thảm họa lớn nhất mà thể chế hoàng gia Nhật Bản có thể biết đến.

Quan niệm của tôi về hệ thống hoàng gia khác xa với những gì ngài coi là một hệ thống quân chủ chuyên chế được các lực lượng chính trị khác nhau sử dụng. Koizumi đã phá tan hình ảnh của tôi về vị quân chủ cai trị.

 

CATEGORIES
TAGS
Share This

COMMENTS

Wordpress (0)