
Julio Cortazar – Truyện ngắn là gì?
Giới thiệu: Julio Cortázar (1914 – 1984) là nhà văn cùng thời (và nhỏ tuổi hơn chút) với Ernesto Sabato và Luis Borges. Ông nổi tiếng với các truyện kì ảo như tập truyện “Un Final de juego”, “Las Armas Secretas”, cũng là người phát ngôn cho văn chương kỳ ảo, thể hiện ở các bài giảng (khắp nơi, nhất là La Havana Cuba, hay Berkeley – Anh). Đây là một bài giảng của ông ở Cuba.
Bài nói chuyện được đăng trên Tạp chí “Casa de las Américas”, số 60, tháng 7 năm 1970, La Havana, Cuba
dịch từ tiếng Tây Ban Nha, bản gốc “Algunos aspectos del cuento”
Hôm nay, tôi đứng đây trước mặt mọi người trong một tình huống cũng hơi oái oăm. Một tay chuyên truyện ngắn người Argentina lại chuẩn bị bàn về truyện ngắn, trong khi phần lớn người nghe và người đối thoại ở đây, trừ vài người hiếm hoi, lại chẳng biết gì mấy về tác phẩm của y. Sự cách biệt văn hóa nó vẫn cứ làm khổ các nước mình, cộng thêm cảnh Cuba bị cô lập một cách bất công nữa, thành ra sách của tôi, dù cũng kha khá rồi đấy, lại chỉ đến tay được những độc giả nhiệt tình và máu lửa như mọi người một cách rất hãn hữu. Dở ở đây không hẳn là mọi người không có dịp đọc truyện của tôi, mà là chính tôi lại thấy mình cứ như một bóng ma đến nói chuyện, thiếu đi nét tự tin thường có khi biết người ta đã biết đến công sức bao năm của tôi. Mà cảm giác như bóng ma này chắc cũng rõ rệt lắm rồi, vì mấy hôm trước, có một bà người Argentina tại khách sạn Riviera cứ khăng khăng bảo tôi không phải là Julio Cortázar. Tôi thì ngớ cả người ra, bà ấy còn nói thêm là Julio Cortázar “xịn” phải là một ông tóc bạc, bạn thân của một người họ hàng nào đó của bà, và chưa bao giờ rời khỏi Buenos Aires. Tôi ở Paris cũng gần mười hai năm rồi, nên mọi người hiểu là cái “chất ma” của tôi tăng lên đáng kể sau vụ ấy. Nếu tôi có đột nhiên biến mất giữa bài nói này thì cũng đừng ngạc nhiên quá; biết đâu thế lại hay cho tất cả mọi người!
Bóng ma thì thèm nhất là được hiện hình, dù chỉ một tí thôi, có cái gì đó sờ nắm được để quay lại làm người xương thịt, dù chỉ một lúc. Để cho mọi người thấy tôi “thật” hơn một chút, tôi xin nói qua loa về hướng đi và ý nghĩa truyện ngắn của mình. Không phải tôi thích khoe hiểu biết, vì có tóm tắt lý thuyết đến mấy cũng chẳng thay được chính tác phẩm; lý do của tôi quan trọng hơn nhiều. Vì tôi sắp nói về vài khía cạnh của truyện ngắn như một thể loại văn chương, mà có khi vài ý của tôi lại làm ai đó ngạc nhiên hay thấy khó nghe, nên tôi nghĩ mình cứ nói thẳng ra mình thích kiểu truyện nào, cách nhìn đời của mình ra sao, một cách quang minh chính đại. Hầu hết truyện ngắn tôi viết đều thuộc loại gọi là kỳ ảo, vì chẳng biết gọi sao cho đúng hơn, và chúng nó đối lập với kiểu hiện thực nửa vời, cứ tin là cái gì cũng tả được, giải thích được như mấy ông triết học với khoa học thế kỷ 18 lạc quan tếu ấy; tức là trong một thế giới đâu đó cũng răm rắp theo luật lệ, nguyên tắc, nhân quả, tâm lý rạch ròi, địa lý thì rõ như vẽ. Còn tôi ngờ rằng có một trật tự khác, bí ẩn hơn, khó nói hơn, cộng thêm khám phá của Alfred Jarry – ông cho rằng muốn hiểu thực tại thì phải xem xét ngoại lệ chứ không phải luật lệ – đấy là kim chỉ nam cho tôi tìm tòi một kiểu văn chương khác hẳn những thứ thực tại luận có phần ngây thơ. Thế nên, nếu trong mấy ý sắp tới, cử toạ ở đây thấy tôi có vẻ ưu ái những thứ lạ lùng trong truyện ngắn, dù là chủ đề hay cách viết, thì tôi nghĩ việc nói rõ cách nhìn đời của mình sẽ giải thích được tại sao tôi lại chọn và tiếp cận vấn đề như vậy. Cùng lắm thì người ta bảo tôi chỉ nói về truyện ngắn theo cách tôi viết. Nhưng mà, tôi không nghĩ thế đâu. Tôi tin chắc là có những cái chung, những giá trị áp dụng được cho tất cả truyện ngắn, dù là kỳ ảo hay hiện thực, kịch tính hay hài. Và tôi nghĩ, có lẽ ở đây, mình có thể chỉ ra những điều không đổi ấy, những điều làm cho một truyện ngắn hay có được không khí riêng và cái chất của một tác phẩm nghệ thuật.
Dịp bàn về truyện ngắn này làm tôi thấy hứng thú vì nhiều lẽ. Tôi đang sống ở Pháp, một nước mà thể loại này không thịnh lắm, dù mấy năm gần đây thấy nhà văn với độc giả cũng bắt đầu để ý hơn đến nó. Mà dù sao thì, trong khi mấy nhà phê bình cứ mải mê xây dựng lý thuyết rồi tranh luận mãi về tiểu thuyết, thì truyện ngắn có vấn đề gì thì hầu như chẳng ai quan tâm. Sống như một tay viết truyện ngắn ở một nước mà thể loại này gần như là “hàng độc”, thì bắt buộc phải đi tìm “đồ ăn” ở văn chương nước khác thôi. Dần dần, đọc bản gốc hay bản dịch, mình cứ gần như nóng ruột mà tích cóp cả đống truyện ngắn xưa và nay, rồi cũng đến lúc mình có thể ngồi tổng kết lại, thử đánh giá thể loại khó định nghĩa này xem sao, nó luồn lách khó nắm bắt với bao nhiêu là mặt đối lập, mà xét cho cùng thì nó cũng bí ẩn và khép kín, như con ốc sên của ngôn ngữ, một người anh em bí ẩn của thơ ca ở một chiều không gian khác của văn chương.
Mà ngoài chuyện dừng chân nghỉ mệt mà nhà văn nào cũng phải làm lúc nào đó trong đời, việc bàn về truyện ngắn còn có ý nghĩa đặc biệt với chúng ta, vì hầu hết các nước châu Mỹ nói tiếng Tây Ban Nha đều đang coi truyện ngắn là cực kỳ quan trọng, một vị thế mà nó chưa bao giờ có ở mấy nước [nói ngôn ngữ] Latinh khác như Pháp hay Tây Ban Nha. Ở chỗ chúng ta, như lẽ thường ở mấy nền văn chương còn non trẻ, sáng tạo cứ tự nhiên mà có trước khi có phê bình, mà thế cũng tốt.
Chẳng ai dám bảo là phải hiểu hết lề luật rồi mới được viết truyện ngắn. Thứ nhất, làm gì có luật nào đâu; cùng lắm thì chỉ có vài quan điểm chung chung tạo nên khung sườn cho thể loại khó gò khuôn này thôi. Thứ hai, những nhà lý thuyết và phê bình đâu nhất thiết phải là người viết truyện, và dĩ nhiên là họ chỉ nhảy vào khi đã có cả một kho tàng tác phẩm để mà đào bới, làm sáng tỏ sự phát triển với phẩm chất của nó. Ở châu Mỹ, dù là Cuba, Mexico, Chile hay Argentina, rất nhiều cây bút truyện ngắn đã cày xới từ đầu thế kỷ, nhiều khi chẳng biết mặt nhau, có khi đến lúc “gần đất xa trời” mới phát hiện ra nhau. Trước cảnh chẳng mấy lạc quan ấy, nơi ít người biết rõ người khác làm gì, tôi nghĩ việc bàn về truyện ngắn mà không cần quan tâm đến chuyện trong nước hay quốc tế cũng hay, vì đây là thể loại mà ở xứ ta ngày càng quan trọng, ngày càng sức sống. Rồi sẽ có lúc, người ta làm ra những tuyển tập chất lượng – như mấy nước nói tiếng Anh vẫn làm vậy – và lúc đó chúng ta sẽ biết mình đã đi được bao xa. Còn bây giờ, tôi thấy nói chuyện trừu tượng về truyện ngắn, như một thể loại văn chương không phải chuyện vô ích. Nếu chúng ta làm được cho ra nhẽ về hình thức văn chương này, nó có thể giúp ta đặt ra một thang giá trị cho tuyển tập lý tưởng mà hãy còn dang dở kia. Lĩnh vực này còn nhiều mơ hồ, nhiều hiểu lầm. Trong khi những nhà viết truyện ngắn vẫn cứ viết, thì cũng đến lúc phải nói về chính việc viết ấy, bỏ qua chuyện cá nhân hay quốc tịch đi. Cần phải có một ý niệm sống động về truyện ngắn là gì, mà điều này lúc nào cũng khó, vì ý niệm thì cứ hay trừu tượng, làm mất đi hồn của nó, trong khi cuộc đời thì lại cứ sợ hãi sự trói buộc mà việc khái niệm hóa muốn áp đặt lên nó để mà cố định và phân loại. Nhưng nếu ta không có một ý niệm sống động về truyện ngắn, thì chỉ làm phí thời gian, vì một truyện ngắn, nói cho cùng, nó vận động ở tầm con người, nơi mà cuộc đời với cách viết về cuộc đời ấy nó như hai anh em đánh nhau một trận, nếu được phép nói thế; và kết quả của trận đánh ấy chính là truyện ngắn, một sự tổng hợp sống động mà cũng là một cuộc đời được tổng hợp, nó giống như nước rung rinh trong pha lê, một cái gì đó thoáng qua mà lại bền lâu. Chỉ có hình ảnh mới truyền tải được thứ giả kim thuật huyền bí ấy, thuật mà giải thích được tại sao một truyện ngắn hay lại có sức lay động sâu sắc đến thế trong lòng, và cũng giải thích tại sao lại có nhiều truyện ngắn thực sự rất tuyệt.
Để hiểu chất riêng của truyện ngắn, người ta hay đặt nó cạnh tiểu thuyết, một thể loại phổ biến hơn nhiều và nhiều quy tắc. Thí dụ, người ta hay nói là tiểu thuyết thì cứ viết tràng giang đi, đọc bao lâu cũng được, chẳng có giới hạn nào đâu ngoài việc hết cái để viết; còn truyện ngắn thì lại bắt đầu từ ý niệm về giới hạn, trước hết là giới hạn về mặt vật lý, đến nỗi ở Pháp, truyện ngắn mà dài quá hai mươi trang là người ta gọi nó là nouvelle, một thứ lai giữa truyện ngắn với tiểu thuyết rồi. Theo kiểu đó, tiểu thuyết với truyện ngắn cũng giống như phim với ảnh chụp, ở chỗ một bộ phim thì về cơ bản là một “trật tự mở”, kiểu tiểu thuyết, còn một bức ảnh đẹp thì lại phải có một sự giới hạn chặt chẽ từ trước, một phần là do khung hình hẹp của máy ảnh và cách người thợ ảnh dùng giới hạn đó một cách nghệ thuật. Tôi không biết mọi người đã từng nghe một tay máy chuyên nghiệp nói về nghề của họ chưa; tôi thì lúc nào cũng thấy ngạc nhiên vì cách họ nói chuyện y như một người viết truyện ngắn ở nhiều điểm. Những nhiếp ảnh gia cỡ như Cartier-Bresson hay Brassai thì định nghĩa nghề của họ như một nghịch lý rõ ràng: đó là cắt một mẩu hiện thực, đặt ra cho nó những giới hạn nhất định, nhưng làm sao để cái mẩu đó nó như một vụ nổ, mở toang ra một hiện thực rộng lớn hơn nhiều, như một cái nhìn linh hoạt vượt lên trên cả khung hình mà máy ảnh chụp được. Trong khi ở phim ảnh, cũng như trong tiểu thuyết, việc nắm bắt thực tại rộng lớn và phong nhiêu hơn đó được thực hiện bằng cách phát triển từ từ các yếu tố nhỏ, tích lũy dần, mà dĩ nhiên là không bỏ qua một sự tổng hợp để tạo ra “cao trào” của tác phẩm, thì trong một bức ảnh hay một truyện ngắn chất lượng cao, người ta lại làm ngược lại. Tức là, thợ ảnh hay cây bút truyện ngắn buộc phải chọn và giới hạn một hình ảnh hay một sự kiện có ý nghĩa, không chỉ có giá trị tự thân, mà còn phải tác động được đến người xem hay người đọc như một kiểu mở đầu, một chất men hướng trí tuệ và cảm xúc đến một cái gì đó vượt xa câu chuyện hình ảnh hay văn chương có trong bức ảnh hay truyện ngắn. Một nhà văn Argentina, mê đấm bốc [ý nói Abelardo Castillo – nd] lắm, từng nói với tôi là trong cái trận chiến giữa một cuốn sách hấp dẫn với người đọc, tiểu thuyết thì luôn thắng bằng điểm, còn truyện ngắn thì phải thắng bằng knock-out. Cũng đúng thôi, vì tiểu thuyết tích lũy dần hiệu ứng lên người đọc, còn một truyện ngắn hay thì nó sắc bén, cắn xé, không nương tay ngay từ những câu đầu tiên. Nhưng mà đừng hiểu theo nghĩa đen, vì tác giả giỏi truyện ngắn là một võ sĩ rất khôn ngoan, nhiều cú đấm đầu tiên có vẻ không ăn thua, nhưng thực ra nó đã ngấm ngầm làm suy yếu những phòng thủ vững chắc nhất của đối thủ rồi. Mọi người cứ lấy bất kỳ truyện ngắn hay nào mình thích ra mà phân tích trang đầu tiên xem. Tôi sẽ ngạc nhiên lắm nếu các vị tìm thấy những chi tiết thừa thãi, chỉ để làm cảnh thôi. Cây bút truyện ngắn biết là mình không thể viết kiểu tích lũy dần, thời gian không phải là bạn đồng hành; cách duy nhất là đào sâu, theo chiều dọc, dù là lên trên hay xuống dưới trong không gian văn chương. Mà cái này, nói ra thì như ẩn dụ, nhưng nó lại thể hiện cốt lõi của phương pháp. Thời gian và không gian của truyện ngắn phải như bị nén lại, chịu một áp lực tinh thần và hình thức cao để tạo ra “sự mở đầu” mà tôi nói lúc nãy. Chỉ cần tự hỏi tại sao một truyện ngắn nào đó lại dở. Nó dở không phải vì chủ đề, vì trong văn chương làm gì có chủ đề hay hay dở, chỉ có cách xử lý chủ đề tốt hay tồi thôi. Nó cũng không dở vì nhân vật nhạt nhẽo, vì ngay cả một hòn đá cũng trở nên thú vị khi được một Henry James hay một Franz Kafka ngó tới. Một truyện ngắn dở khi nó được viết mà không có sự căng thẳng cần thiết, một yếu tố phải lộ ra ngay từ những từ đầu tiên hay những cảnh đầu tiên. Và từ đó, mình có thể đoán trước là mấy cái khái niệm về ý nghĩa, cường độ và sự căng thẳng sẽ giúp mình, như sẽ thấy sau này, hiểu rõ hơn về chính cấu trúc của truyện ngắn.
Chúng ta đã nói rằng cây bút truyện ngắn làm việc với một thứ mà chúng ta gọi là có ý nghĩa. Yếu tố ý nghĩa của truyện ngắn hình như chủ yếu nằm ở chủ đề của nó, ở việc chọn một sự kiện có thật hay bịa ra mà nó có đặc tính bí ẩn là tỏa ra một điều gì đó vượt ra ngoài chính nó, đến mức một chuyện vặt vãnh trong nhà, như trong bao nhiêu truyện hay của Katherine Mansfield hay Sherwood Anderson, lại trở thành một tóm lược phũ phàng về một phận người nào đó, hoặc thành một biểu tượng nóng bỏng của một trật tự xã hội hay lịch sử. Một truyện ngắn có ý nghĩa khi nó phá vỡ giới hạn của chính mình bằng một vụ nổ năng lượng tinh thần bất ngờ soi sáng một cái gì đó vượt xa câu chuyện nhỏ bé và đôi khi tội nghiệp mà nó kể. Tôi nghĩ, ví dụ, về chủ đề của hầu hết những truyện kể tuyệt vời của Anton Chekhov. Có gì ở đó mà không phải là nỗi buồn tẻ hàng ngày, sự tầm thường, thường là sự dễ dãi chấp nhận hay sự nổi loạn vô ích? Những gì được kể trong mấy truyện đó gần như là những chuyện mà hồi bé, trong mấy buổi họp mặt chán ngắt phải ngồi cùng người lớn, mình đã nghe ông bà hay các cô các dì kể; những mẩu chuyện gia đình nhỏ xíu, chẳng đáng gì về những tham vọng không thành, những bi kịch địa phương bé nhỏ, những nỗi lo vừa vặn với một căn phòng, một cây dương cầm, một buổi tiệc trà. Ấy thế mà, những truyện ngắn của Katherine Mansfield, của Chekhov, lại đầy ý nghĩa; có một cái gì đó bùng nổ trong chúng khi ta đọc và chúng gợi ra một kiểu phá vỡ cái thường ngày, vượt xa chuyện được kể. Mọi người hẳn đã nhận ra là ý nghĩa bí ẩn đó không chỉ nằm ở chủ đề của truyện ngắn, vì thực ra phần lớn những truyện ngắn dở mà ai cũng từng đọc đều có những tình tiết giống như mấy tác giả kể trên đã dùng. Hình dung về ý nghĩa chẳng có nghĩa lý gì nếu ta không nối nó với ý tưởng về cường độ và sự căng thẳng, những cái không chỉ liên quan đến chủ đề mà còn đến cách xử lý văn chương của chủ đề đó, đến kỹ thuật được dùng để phát triển chủ đề. Và chính ở đây, đột ngột, ranh giới giữa cây bút truyện ngắn giỏi và cây bút truyện ngắn dở hiện ra. Vì thế, mình sẽ phải dừng lại thật cẩn thận ở ngã ba này, để cố gắng hiểu thêm một chút về cái hình thái sống kỳ lạ đó là một truyện ngắn thành công, và xem tại sao nó lại sống động trong khi những truyện khác, trông có vẻ giống nó, lại chẳng hơn gì mực trên giấy, thứ để cho người ta quên đi.
Cứ nhìn vấn đề từ góc độ của người viết truyện ngắn xem sao, và trong trường hợp này, bắt buộc phải là từ cách nhìn của chính tôi. Một cây bút truyện ngắn là một người, đột nhiên, giữa thế giới ồn ào náo nhiệt này, dính líu ít nhiều đến thực tại lịch sử bao quanh mình, chọn một chủ đề nào đó rồi viết thành một câu chuyện. Việc chọn chủ đề này không đơn giản chút nào. Đôi khi nhà văn chủ động chọn, đôi khi lại cảm thấy như thể chủ đề nó cứ tự nhiên ập đến, không cưỡng lại được, cứ thúc mình phải viết ra. Với tôi thì, phần lớn truyện ngắn tôi viết – nói sao nhỉ – nó cứ tự nhiên tuôn ra, chẳng theo ý mình, nó ở trên hay dưới lý trí, như thể tôi chỉ là một cái ống dẫn để một sức mạnh nào đó từ bên ngoài đi qua và hiện ra. Nhưng mà điều đó, dù có thể tùy tính khí mỗi người, cũng không làm thay đổi cốt lõi: đó là vào một lúc nào đó, một chủ đề xuất hiện, dù là bịa ra, hay tự mình chọn, hoặc tự dưng nó ập đến từ một nơi nào đó chẳng thể nào tả được. Tôi nhắc lại nhé, có một chủ đề, và chủ đề đó sẽ thành một câu chuyện. Trước khi chuyện đó xảy ra, mình có thể nói gì về chính cái chủ đề đó? Tại sao lại là chủ đề này mà không phải chủ đề khác? Cái gì, dù mình có ý thức hay không, đã khiến cây bút truyện ngắn chọn một chủ đề nhất định?
Theo tôi, chủ đề mà từ đó một truyện ngắn hay ra đời lúc nào cũng đặc biệt, nhưng không phải ý tôi là chủ đề phải ghê gớm, khác thường, bí ẩn hay quái gở. Rất ngược lại là khác, nó có thể là một chuyện vặt vãnh, tầm thường hàng ngày. Cái đặc biệt nằm ở một phẩm chất giống như nam châm ấy; một chủ đề hay nó hút cả một mớ những mối liên quan, nó làm cho tác giả, rồi sau đó là người đọc, nảy ra bao nhiêu ý nghĩ, linh cảm, tâm tư và thậm chí cả những ý tưởng cứ lơ lửng đâu đó trong trí não hay trong lòng họ. Một chủ đề hay sẽ như mặt trời, một ngôi sao mà xung quanh nó cả một hệ hành tinh quay, mà nhiều khi mình chẳng biết gì cho đến khi cây bút truyện ngắn, nhà thiên văn của chữ nghĩa, chỉ cho mình thấy. Hoặc, nói cho khiêm tốn hơn và cũng hợp thời hơn, một chủ đề hay nó có cái gì đó của hệ thống nguyên tử, của hạt nhân mà xung quanh đó các electron quay; mà tất cả những điều ấy, xét cho cùng, chẳng phải đã như một lời mời gọi của sự sống, một động lực thúc đẩy mình thoát ra khỏi bản thân để đi vào một hệ thống quan hệ phức tạp và đẹp đẽ hơn sao? Tôi đã nhiều lần tự hỏi điều gì gì làm nên giá trị của một số truyện ngắn không thể nào quên. Lúc đọc chúng, mình cũng đọc nhiều truyện khác, thậm chí có thể là của cùng một tác giả. Rồi năm tháng trôi qua, mình đã sống và quên đi biết bao nhiêu. Nhưng những truyện ngắn nhỏ bé, tưởng chừng vô nghĩa đó, những hạt cát giữa biển văn chương bao la, vẫn ở đó, vẫn rung động trong mình. Chẳng phải ai cũng có một bộ sưu tập truyện ngắn của riêng mình sao? Tôi cũng có của tôi, và tôi có thể kể ra vài tên tuổi. Đó là William Wilson của Edgar Allan Poe; đó là Viên mỡ bò của Guy de Maupassant. Những hành tinh nhỏ bé vẫn cứ quay: đó là Một kỷ niệm Giáng sinh của Truman Capote; Tlön, Uqbar, Orbis Tertius của Jorge Luis Borges; Một giấc mơ thành hiện thực của Juan Carlos Onetti; Cái chết của Ivan Ilich của Tolstoy; Năm mươi truyện ngắn hay của Hemingway; Những kẻ mộng mơ của Isak Dinesen, và cứ thế tôi có thể liệt ra mãi… Mọi người hẳn đã nhận ra là không phải tất cả những truyện ngắn đó đều bắt buộc phải có trong tuyển tập. Vậy tại sao chúng lại cứ ở trong đầu mình? Cứ nghĩ về những truyện ngắn mà mọi người không thể quên xem, mọi người sẽ thấy chúng đều có chung một đặc điểm: chúng là chất keo dính của một hiện thực rộng lớn hơn nhiều so với câu chuyện đơn thuần của chúng, và chính vì thế, chúng đã tác động đến mình với một sức mạnh mà vẻ ngoài khiêm tốn, sự ngắn của nó, chẳng làm ai ngờ tới. Và người đó, vào một lúc nào đó, chọn một chủ đề rồi viết thành một câu chuyện, sẽ là một cây bút truyện ngắn vĩ đại nếu lựa chọn của y chứa đựng – đôi khi chính y cũng không biết – sự mở rộng kỳ diệu từ nhỏ bé đến lớn lao, từ cá nhân hạn hẹp đến chính bản chất của thân phận con người. Mọi câu chuyện còn mãi với thời gian đều giống như hạt mầm nơi một cây cổ thụ khổng lồ đang ngủ yên. Cây đó sẽ lớn lên trong mình, sẽ tỏa bóng mát trong ký ức của mình.
Tuy nhiên, chúng ta cần phải làm rõ hơn ý niệm về những chủ đề có ý nghĩa này. Cùng một chủ đề có thể rất có ý nghĩa với nhà văn này, nhưng lại nhạt với nhà văn khác; cùng một chủ đề có thể làm một độc giả thấy rung động mạnh mẽ, nhưng lại chẳng làm một độc giả khác mảy may quan tâm. Tóm lại, có thể nói là chẳng có chủ đề nào hoàn toàn có ý nghĩa hay hoàn toàn vô nghĩa cả. Cái có ở đây là một sự “bắt sóng” bí ẩn và phức tạp giữa một nhà văn nào đó và một chủ đề nào đó vào một thời điểm nào đó, cũng như sau này có thể có sự “bắt sóng” tương tự giữa những truyện ngắn nào đó và những độc giả nào đó. Vì thế, khi mình nói một chủ đề có ý nghĩa, như trong trường hợp truyện ngắn của Chekhov chẳng hạn, ý nghĩa đó phần nào được quyết định bởi một cái gì đó nằm ngoài chính chủ đề, bởi một điều gì đó có trước và sau chủ đề. Cái có trước là nhà văn, với tất cả những giá trị nhân văn và văn chương của mình, với một ý muốn tạo ra một tác phẩm có ý nghĩa; cái có sau là cách xử lý văn chương của chủ đề, là cách mà cây bút truyện ngắn, khi đối mặt với chủ đề của mình, “tấn công” và đặt nó vào ngôn từ và phong cách, cấu trúc nó thành một truyện ngắn, và cuối cùng là chiếu nó vào một cái gì đó vượt ra ngoài chính truyện ngắn đó. Đến đây, tôi thấy cũng nên kể một chuyện thường xảy ra với tôi, mà những người bạn viết truyện ngắn khác cũng rành như tôi. Thường thì trong một cuộc nói chuyện, ai đó kể một chuyện vui, cảm động hay kỳ quái, rồi quay sang cây bút truyện ngắn đang có mặt và bảo: “Đây là một chủ đề tuyệt vời cho một truyện ngắn; tôi tặng anh đấy.” Tôi đã được tặng cả đống chủ đề kiểu đó, và lần nào tôi cũng lịch sự đáp: “Cảm ơn nhiều nhé,” nhưng chẳng bao giờ tôi viết truyện ngắn nào từ mấy chủ đề đó cả. Tuy nhiên, có một lần, một người bạn lơ đãng kể cho tôi nghe về những cuộc phiêu lưu của một cô hầu gái của cô ấy ở Paris. Trong khi nghe, tôi cảm thấy chuyện đó có thể thành một truyện ngắn. Với nàng, mấy chuyện đó chỉ là những giai thoại thú vị; còn với tôi, đột nhiên, chúng lại mang một ý nghĩa vượt xa nội dung giản đơn và thậm chí có phần tầm thường của chúng. Vì thế, mỗi khi tôi tự hỏi: Làm sao để phân biệt giữa một chủ đề vô nghĩa – dù nó có vui hay cảm động đến mấy – và một chủ đề có ý nghĩa?, tôi đã tự trả lời rằng nhà văn là người đầu tiên cảm nhận được hiệu ứng không thể tả nhưng lại vô cùng mạnh mẽ đó của một số chủ đề nhất định, và chính vì thế, anh ta mới là một nhà văn. Giống như với Marcel Proust, vị của một chiếc bánh madeleine nhúng vào trà đã bất ngờ mở ra cả một chân trời dĩ vãng, nhà văn cũng phản ứng với một số chủ đề nhất định theo cùng một cách mà truyện ngắn của ông, sau này, sẽ làm cho người đọc phản ứng. Vì vậy, mọi truyện ngắn đều được định hình sẵn bởi một hào quang, bởi một sức hút không thể cưỡng lại mà chủ đề tạo ra trong người sáng tạo ra nó.
Thế là, chúng ta đã đi đến cuối chặng đầu tiên của việc một truyện ngắn ra đời, và chạm đến ngưỡng cửa của sáng tạo đích thực. Đây là một tác giả truyện ngắn: người đã chọn một chủ đề nhờ vào những “ăng-ten” tinh tế giúp anh ta nhận ra những yếu tố sau này sẽ biến thành tác phẩm nghệ thuật. Tác giả truyện ngắn đứng trước chủ đề của mình, trước cái “mầm” đã có sự sống, nhưng chưa có hình hài cuối cùng. Đối với anh ta, chủ đề đó có ý nghĩa, có tầm quan trọng. Nhưng nếu mọi thứ chỉ dừng lại ở đó, thì chẳng có mấy giá trị; bây giờ, với tư cách là khâu cuối cùng của quá trình, là một “quan tòa” nghiêm khắc, người đọc đang chờ đợi, yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại của cả chu trình. Và đó là lúc truyện ngắn phải ra đời như một cây cầu, như một lối đi, phải thực hiện một bước nhảy vọt để truyền tảiý nghĩa ban đầu, do tác giả khám phá, đến đối tượng thụ động hơn, ít cảnh giác hơn và nhiều khi thậm chí thờ ơ, được gọi là độc giả. Những cây bút truyện ngắn non tay thường ảo tưởng rằng chỉ cần viết một cách đơn giản, thẳng tuột một chủ đề đã làm họ xúc động là đủ để làm độc giả xúc động theo. Họ ngây thơ như các bậc cha mẹ thấy con mình đẹp ơi là đẹp, rồi cứ nghĩ là ai cũng thấy nó đẹp như vậy. Theo thời gian, qua những thất bại, cây bút truyện ngắn nào đủ sức vượt qua giai đoạn ngây thơ ban đầu đó sẽ học được rằng trong văn chương, ý tốt thôi chưa đủ. Anh ta phát hiện ra rằng để tái tạo trong lòng độc giả sự xúc động đã khiến anh ta viết truyện, cần phải có tay nghề của một nhà văn, và tay nghề đó, bên cạnh nhiều thứ khác, bao gồm việc tạo ra được không khí đặc trưng của mọi truyện ngắn hay, một không khí khiến người ta phải đọc tiếp, cuốn hút sự chú ý, tách người đọc ra khỏi mọi thứ xung quanh để rồi sau đó, khi truyện kết thúc, lại kết nối anh ta với hoàn cảnh của mình theo một cách mới, phong phú hơn, sắc hơn hoặc đẹp hơn. Và cách duy nhất để “bắt cóc” tạm thời người đọc kiểu này là thông qua một lối viết dựa trên cường độ và sự căng thẳng, một lối viết mà trong đó các yếu tố hình thức và biểu đạt phải khớp một cách chặt chẽ, không một chút nhân nhượng nào, với bản chất của chủ đề, mang lại cho nó những hình ảnh và âm thanh sâu sắc và độc đáo nhất, biến nó thành độc nhất, khó quên, đóng đinh nó mãi mãi vào thời gian và không gian của nó, và vào ý nghĩa cốt lõi nhất của nó. Điều mà tôi gọi là cường độ trong một truyện ngắn bao gồm việc loại bỏ tất cả những ý tưởng hay tình huống trung gian, tất cả những tiểu tiết thừa hay những đoạn chuyển tiếp mà tiểu thuyết cho phép và thậm chí yêu cầu. Chẳng ai trong số mọi người quên được Thùng rượu Amontillado của Edgar Allan Poe đâu nhỉ. Nét phi thường của truyện ngắn này là sự loại bỏ đột ngột mọi mô tả về bối cảnh. Chỉ sau ba bốn câu, chúng ta đã ở giữa bi kịch, chứng kiến một cuộc trả thù tàn khốc đang diễn ra. Những kẻ giết người của Hemingway là một ví dụ khác về cường độ đạt được nhờ việc loại bỏ tất cả những gì không tập trung vào bi kịch. Nhưng bây giờ, chúng ta hãy nghĩ đến những truyện ngắn của Joseph Conrad, của D.H. Lawrence, của Kafka. Trong các tác phẩm của họ, với những kiểu cách riêng của mỗi người, cường độ lại thuộc một loại khác, và tôi thích gọi nó là sự căng thẳng. Đó là một cường độ được thể hiện qua cách tác giả từ từ dẫn dắt chúng ta đến gần hơn với câu chuyện. Chúng ta vẫn còn xa lắm mới biết chuyện gì sẽ xảy ra, ấy thế mà vẫn không thể thoát khỏi bầu không khí của nó. Trong Thùng rượu Amontillado và Những kẻ giết người, các sự kiện, chẳng cần chuẩn bị gì sất, cứ thế nhảy bổ vào và tóm lấy chúng ta; ngược lại, trong một truyện kể chậm rãi và dạt dào của Henry James – ví dụ như truyện La lección del maestro – người ta ngay lập tức cảm thấy rằng bản thân các sự kiện chẳng quan trọng gì, rằng tất cả nằm ở những lực lượng đã khơi mào cho chúng, trong mạng lưới tinh vi đã có từ trước và đi cùng với chúng. Nhưng cả cường độ của hành động lẫn sự căng thẳng bên trong câu chuyện đều là sản phẩm của điều mà trước đây tôi gọi là tay nghề của nhà văn, và chính ở đây, chúng ta đang tiến gần đến cuối cuộc dạo chơi này qua truyện ngắn. Ở nước tôi, và bây giờ ở Cuba, tôi đã đọc truyện ngắn của đủ loại tác giả: già hay trẻ, thành thị hay nông thôn, đến với văn chương vì lý do thẩm mỹ hay vì những đòi hỏi xã hội nhất thời, dấn thân hay không dấn thân. Thì đấy, và dù nghe có vẻ hiển nhiên, cả ở Argentina lẫn ở đây, những truyện ngắn hay đều do những người nắm vững tay nghề theo nghĩa đã nói viết ra. Một ví dụ ở Argentina sẽ làm rõ hơn điều này. Ở các tỉnh miền trung và miền bắc của chúng tôi, có một truyền thống lâu đời về truyện kể dân gian, mà những người gaucho truyền miệng cho nhau vào ban đêm quanh đống lửa, mà cha mẹ vẫn kể cho con cái nghe, rồi đột nhiên, chúng được một nhà văn địa phương nào đó ghi lại và, trong phần lớn các trường hợp, trở thành những truyện ngắn dở tệ. Chuyện gì đã xảy ra vậy? Bản thân những câu chuyện rất thú vị, chúng phản ánh và tóm tắt kinh nghiệm, óc hài hước và cái nhìn định mệnh của người nông dân; một số thậm chí còn đạt đến tầm bi kịch hoặc thơ ca. Khi người ta nghe chúng từ miệng một ông già criollo, giữa những ngụm trà mate, người ta cảm thấy như thời gian ngừng lại, và nghĩ rằng những người hát rong Hy Lạp cổ đại cũng đã kể những chiến công của Achilles như vậy để làm kinh ngạc những người chăn cừu và du khách. Nhưng vào lúc đó, khi lẽ ra phải có một Homer để tạo ra một Iliad hay một Odyssey từ kho tàng truyền miệng đó, thì ở nước tôi lại xuất hiện một ông cho rằng văn hóa thành thị là dấu hiệu của suy tàn, cho rằng những cây bút truyện ngắn mà tất cả chúng ta yêu mến là những kẻ chỉ biết làm đẹp lòng mấy tầng lớp xã hội đã tiêu vong, và ông ta lại nghĩ rằng để viết một truyện ngắn, chỉ cần chép lại một câu chuyện truyền thống, cố gắng giữ nguyên giọng nói, cách nói của nông dân, đầy lỗi câu từ, cái mà họ gọi là màu sắc địa phương. Tôi không biết liệu kiểu viết truyện ngắn dân gian đó có được ưa chuộng ở Cuba không; hy vọng là không, vì ở nước tôi, nó chẳng mang lại gì ngoài những cuốn sách không ngửi được, chẳng làm người nông dân hứng thú – họ thà nghe truyện giữa hai chầu nhậu còn hơn – cũng chẳng làm độc giả thành thị quan tâm, những người có thể đã “hỏng” nhiều nhưng lại rất rành các tác phẩm kinh điển của thể loại này. Ngược lại – và tôi cũng đang nói về Argentina – chúng tôi đã có những nhà văn như Roberto J. Payró, Ricardo Güiraldes, Horacio Quiroga và Benito Lynch, những người, cũng xuất phát từ những chủ đề trong nhiều trường hợp là truyền thống, được nghe từ miệng những ông già criollo như Don Segundo Sombra, đã biết cách làm cho cái chất liệu đó thăng hoa và biến nó thành tác phẩm nghệ thuật. Nhưng Quiroga, Güiraldes và Lynch đều sành nghề văn, nghĩa là họ chỉ chọn những chủ đề có ý nghĩa, làm phong phú thêm, cũng như Homer hẳn đã phải bỏ đi rất nhiều tình tiết chiến tranh và ma thuật để chỉ giữ lại những gì đã đến được với chúng ta nhờ sức mạnh thần thoại to lớn của chúng, nhờ sự vang vọng của những hình mẫu trong tâm trí, của những “hormone tâm linh” như Ortega y Gasset gọi các huyền thoại. Quiroga, Güiraldes và Lynch là những nhà văn có tầm vóc thế giới, không bị bó buộc bởi những định kiến địa phương, dân tộc hay dân túy; vì thế, ngoài việc lựa chọn cẩn thận chủ đề cho truyện của mình, họ còn đưa chúng vào một hình thức văn chương, hình thức duy nhất có thể truyền tải đến người đọc tất cả giá trị của chúng, tất cả men say của chúng, tất cả sự vươn xa của chúng cả về chiều sâu lẫn chiều cao. Họ viết một cách mãnh liệt. Chẳng có cách nào khác để một truyện ngắn có hiệu quả, chạm đúng vào người đọc và khắc sâu vào ký ức của họ.
Ví dụ tôi vừa kể có thể làm Cuba thấy thú vị. Rõ ràng là những cơ hội mà Cách mạng mang lại cho một cây bút truyện ngắn gần như là vô tận. Thành phố, nông thôn, cuộc đấu tranh, công việc, các kiểu tâm lý khác nhau, những xung đột về tư tưởng và tính cách; và tất cả những điều đó dường như được thổi bùng lên bởi khao khát hành động, thể hiện bản thân, giao tiếp mà mọi người đang thể hiện, một khao khát chưa từng có trước đây. Nhưng tất cả những điều đó, làm sao để biến thành những truyện ngắn tuyệt vời, những truyện ngắn đến được với người đọc với sức mạnh và hiệu quả cần thiết? Chính ở đây, tôi muốn áp dụng cụ thể những gì tôi đã nói một cách trừu tượng hơn. Nhiệt tình và thiện chí không thôi thì chưa đủ, cũng như tay nghề của nhà văn thôi cũng chưa đủ để viết những truyện ngắn có thể ghi lại một cách văn chương (tức là, trong ngưỡng mộ của mọi người, trong ký ức của một dân tộc) sự vĩ đại của cuộc Cách mạng đang diễn ra này. Ở đây, hơn bất cứ nơi nào khác, ngày nay cần một hòa quyện hoàn toàn của hai lực lượng này: lực lượng của con người hoàn toàn dấn thân vào thực tại đất nước và thế giới của mình, và lực lượng của nhà văn sáng suốt, tự tin vào nghề của mình. Về mặt này, không thể có sự nhầm lẫn nào. Dù một cây bút truyện ngắn có kỳ cựu, có kinh nghiệm đến đâu, nếu thiếu một động lực sâu sắc, nếu truyện ngắn của anh ta không bắt nguồn từ một trải nghiệm sống động, tác phẩm của anh ta sẽ chẳng hơn gì một bài tập thẩm mỹ đơn thuần. Nhưng điều ngược lại còn tệ hơn, bởi vì lòng nhiệt thành, ý muốn truyền tải một thông điệp, sẽ chẳng có giá trị gì nếu thiếu các công cụ biểu đạt, các phương tiện văn phong, giúp cho việc truyền tải đó trở nên khả thi. Lúc này, chúng ta đang chạm đến điểm mấu chốt của vấn đề. Tôi tin, và tôi nói điều này sau khi đã cân nhắc kỹ lưỡng tất cả các yếu tố liên quan, rằng viết cho một cuộc cách mạng, viết trong một cuộc cách mạng, viết một cách cách mạng, không có nghĩa là, như nhiều người vẫn nghĩ, bắt buộc phải viết về chính cuộc cách mạng đó. Về phần mình, tôi cho rằng nhà văn cách mạng là người mà trong đó ý thức về dấn thân tự do cá nhân và tập thể của mình hòa quyện một cách không thể tách rời với tự do văn hóa tối cao khác mà sự làm chủ hoàn toàn nghề nghiệp của mình mang lại. Nếu nhà văn đó, có trách nhiệm và sáng suốt, quyết định viết văn chương kỳ ảo, hoặc tâm lý, hoặc hướng về quá khứ, hành động của ông ấy là một hành động tự do trong cách mạng, và do đó nó cũng là một hành động cách mạng mặc dù truyện ngắn của ông ấy không nói về các hình thức cá nhân hay tập thể mà cách mạng thể hiện. Trái ngược với cái nhìn hạn hẹp của nhiều người hay nhầm lẫn văn chương với sư phạm, văn chương với giảng dạy, văn chương với nhồi sọ, một nhà văn cách mạng hoàn toàn có quyền hướng đến một độc giả phức tạp hơn nhiều, đòi hỏi cao hơn nhiều về mặt tinh thần so với những gì các nhà văn và nhà phê bình “tay ngang” do hoàn cảnh tạo ra và cứ khăng khăng rằng thế giới riêng của họ là thế giới duy nhất, rằng những lo lắng nhất thời là những lo lắng duy nhất có giá trị. Chúng ta hãy nhắc lại, áp dụng vào những gì xung quanh chúng ta ở Cuba, câu nói tuyệt vời của Hamlet với Horatio: “Còn nhiều điều trên trời và dưới đất hơn những gì triết học của anh tưởng tượng…” Và chúng ta hãy nghĩ rằng một nhà văn không chỉ được đánh giá qua chủ đề truyện ngắn hay tiểu thuyết của mình, mà còn qua hiện diện sống động của ông ấy trong lòng cộng đồng, qua dấn thân toàn diện của con người ông ấy là một sự bảo đảm không thể chối cãi cho sự thật và sự cần thiết của tác phẩm của ông ấy, cho dù tác phẩm đó có vẻ xa lạ đến đâu với hoàn cảnh hiện tại. Tác phẩm này không xa lạ với cách mạng vì nó không phải ai cũng hiểu được. Ngược lại, nó chứng minh rằng có một lượng lớn độc giả tiềm năng, theo một nghĩa nào đó, còn xa cách hơn cả nhà văn với các mục tiêu cuối cùng của cách mạng, với các mục tiêu về văn hóa, tự do, sự hưởng thụ trọn vẹn thân phận con người mà người Cuba đã đặt ra để tất cả những ai yêu mến và hiểu họ phải ngưỡng mộ. Các nhà văn được sinh ra để làm điều đó càng nhắm đến mục tiêu cao hơn, thì các mục tiêu cuối cùng của dân tộc mà họ thuộc về sẽ càng cao hơn. Hãy cẩn thận với kiểu mị dân dễ dãi khi đòi hỏi một nền văn chương ai cũng hiểu! Nhiều người ủng hộ nó chẳng có lý do nào khác ngoài việc họ rõ ràng là không đủ khả năng để hiểu một nền văn chương có tầm vóc lớn hơn. Họ lớn tiếng đòi hỏi các chủ đề phổ thông, mà không hề hay biết rằng nhiều khi độc giả, dù đơn giản đến đâu, cũng sẽ phân biệt một cách bản năng giữa một truyện ngắn phổ thông viết dở và một truyện ngắn khó hơn, phức tạp hơn nhưng lại có khả năng đưa họ thoát ra khỏi thế giới nhỏ bé xung quanh trong giây lát và cho họ thấy một cái gì đó khác, dù đó là gì đi nữa nhưng là một điều gì đó khác, một điều gì đó khác biệt. Nói về các chủ đề phổ thông một cách khô khan là vô nghĩa. Những truyện ngắn về các chủ đề phổ thông chỉ hay nếu chúng tuân thủ, giống như bất kỳ truyện ngắn nào khác, cơ chế nội tại đòi hỏi và phức tạp đó mà chúng ta đã cố gắng trình bày trong phần đầu của cuộc nói chuyện này. Nhiều năm trước, tôi đã có bằng chứng về khẳng định này ở Argentina, trong một buổi gặp gỡ với những người nông dân mà một vài nhà văn chúng tôi tham dự. Ai đó đã đọc một truyện ngắn dựa trên một tình tiết trong cuộc chiến tranh giành độc lập của chúng tôi, được viết với một sự đơn giản có chủ ý để đặt nó, như tác giả nói, “ngang tầm với người nông dân”. Câu chuyện được lắng nghe một cách lịch sự, nhưng dễ dàng nhận thấy rằng nó chưa chạm đến đáy lòng. Sau đó, một người trong chúng tôi đã đọc Bàn chân khỉ, truyện ngắn nổi tiếng của W. W. Jacobs. Sự thích thú, cảm xúc, nỗi kinh hoàng, và cuối cùng là sự phấn khích thật phi thường! Tôi nhớ chúng tôi đã dành phần còn lại của buổi tối để nói về ma thuật, phù thủy, những cuộc trả thù ma quỷ. Và tôi chắc chắn rằng câu chuyện của Jacobs vẫn còn sống mãi trong ký ức của những người gaucho mù chữ đó, trong khi câu chuyện được cho là phổ thông, được “chế” ra cho họ, với từ vựng, khả năng trí tuệ bề ngoài và những mối quan tâm yêu nước của họ, hẳn đã bị lãng quên như chính nhà văn đã “chế” ra nó. Tôi đã thấy sự xúc động mà một vở kịch Hamlet, một tác phẩm khó và tinh tế nếu có, gây ra trong những người dân thường, và vẫn là chủ đề của các nghiên cứu uyên bác và vô số cuộc tranh luận. Đúng là những người đó không thể hiểu được nhiều điều làm say mê các chuyên gia về sân khấu thời Elizabeth. Nhưng điều đó có quan trọng gì? Chỉ có cảm xúc của họ mới quan trọng, sự kinh ngạc và sự cuốn hút của họ trước bi kịch của vị hoàng tử trẻ người Đan Mạch. Điều đó chứng tỏ rằng Shakespeare thực sự viết cho nhân dân, trong chừng mực chủ đề của ông có ý nghĩa sâu sắc đối với bất kỳ ai ở các cấp độ khác nhau – vâng, nhưng chạm đến một chút ở mỗi người – và rằng cách xử lý sân khấu của chủ đề đó sở hữu cường độ đặc trưng của các nhà văn vĩ đại, và nhờ đó, những rào cản trí tuệ tưởng chừng cứng nhắc nhất bị phá vỡ, và con người nhận ra nhau và kết nối với nhau trên một bình diện vượt lên trên hoặc nằm dưới văn hóa. Tất nhiên, sẽ thật ngây thơ khi tin rằng mọi tác phẩm vĩ đại đều có thể được những người dân thường hiểu và ngưỡng mộ; không phải vậy, và không thể như vậy. Nhưng sự ngưỡng mộ mà các bi kịch Hy Lạp hoặc của Shakespeare gây ra, sự quan tâm say mê mà nhiều truyện ngắn và tiểu thuyết không hề đơn giản hay dễ tiếp cận khơi dậy, lẽ ra phải khiến những người ủng hộ cái gọi là “nghệ thuật đại chúng” nghi ngờ rằng quan niệm của họ về nhân dân là phiến diện, bất công, và cuối cùng là nguy hiểm. Sẽ chẳng ơn ích gì cho nhân dân nếu đề xuất một nền văn chương mà họ có thể tiếp thu một cách dễ dàng, thụ động, như người ta đi xem phim cao bồi. Điều cần làm là giáo dục họ, và đó là một nhiệm vụ sư phạm trong giai đoạn đầu chứ không phải là văn chương. Đối với tôi, thật là một trải nghiệm đáng mừng khi thấy ở Cuba, những nhà văn mà tôi ngưỡng mộ nhất tham gia vào cuộc cách mạng bằng cách cống hiến hết mình, không cắt xén một phần khả năng của mình vì lợi ích của một thứ nghệ thuật đại chúng được cho là sẽ không hữu ích cho bất kỳ ai. Một ngày nào đó, Cuba sẽ sở hữu một kho tàng truyện ngắn và tiểu thuyết, trong đó chứa đựng, được chuyển hóa sang bình diện thẩm mỹ, được vĩnh cửu hóa trong chiều kích phi thời gian của nghệ thuật, kỳ tích cách mạng ngày nay của mình. Nhưng những tác phẩm đó sẽ không được viết vì nghĩa vụ, vì những khẩu hiệu của thời đại. Chủ đề của chúng sẽ ra đời khi thời điểm chín muồi, khi nhà văn cảm thấy rằng mình phải thể hiện chúng trong truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản sân khấu hay thơ ca. Chủ đề của chúng sẽ chứa đựng một thông điệp chân thực và sâu sắc, bởi vì chúng sẽ không được lựa chọn vì một mệnh lệnh mang tính giáo điều hay tuyên huấn, mà bởi một lực lượng không thể cưỡng lại sẽ chi phối tác giả, và tác giả đó, bằng cách vận dụng tất cả các nguồn lực nghệ thuật và thủ pháp của mình, không hy sinh bất cứ điều gì hay bất kỳ ai, sẽ phải truyền tải đến người đọc như cách người ta truyền tải những điều cơ bản: từ máu sang máu, từ tay sang tay, từ người sang người.