Đọc ‘Câu Chuyện Dòng Sông’ (cạnh quan tài của ông) và các truyện khác – Thuận Ân

Đọc ‘Câu Chuyện Dòng Sông’ (cạnh quan tài của ông) và các truyện khác – Thuận Ân

 

Giới thiệu của văn+: Luôn luôn thế giới mà ta đang sống, đang nhìn, thì phong nhiêu, vô trật tự, chồng lấn của thời gian, vật chất, tồn tại ngổn ngang khồng lồ của cái biết và cái chưa biết. Ngôn ngữ chính là một nỗ lực nắm lấy thực tại bằng việc tóm lấy và gò khuôn những gì mà ta có thể tạm coi là thành hình, trong lộn xộn của thế giới. Dĩ nhiên cuộc thâu tóm đó cần nhiều sức mạnh và cả đức tin, nó cũng có thời gian, lịch sử và biến đổi của nó, những ảo ảnh của nó: đó là lý do cần suy nghĩ bằng thơ và hành động bằng văn chương, trước thực tại.  

Đây là bộ ba tác phẩm của tác giả trẻ Thuận Ân, tên thật là Nguyễn Thuận Ân, là một tác giả trẻ người Việt Nam, đang sinh sống và làm việc tại Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh. Có lẽ, đôi khi giới thiệu một bộ ba sẽ hay hơn là một truyện đơn. Các tác phẩm bao quát cách nhìn thực tại của một tác giả trẻ, trong phong cảnh đương đại.

Trong “Một Hiện Vật”, câu chuyện được kể qua một “hiện vật” nhật ký từ tương lai, ghi lại trải nghiệm khiếp hãi của một người vô danh trong hầm trú ẩn sau “Cuộc Chiến giữa các thế giới”. Truyện gây ấn tượng với cách kể độc đáo, không khí ngột ngạt, đặt ra câu hỏi về bản chất con người khi bị đẩy đến giới hạn, sự mong manh khó nắm bắt của văn minh và khát vọng tự do

“Đọc ‘Câu Chuyện Dòng Sông’ (cạnh quan tài của ông)” lại là một dòng chảy trầm lắng của ký ức và chiêm nghiệm khi người kể chuyện về quê chịu tang ông. Giữa những nghi thức tang lễ, anh suy tư về người đã khuất, kỷ niệm thơ ấu, và biên giới sống chết. Việc đọc “Câu Chuyện Dòng Sông” của Hermann Hesse bên linh cữu trở thành một lối đi, thông vào thực tại.

Còn “Ở Xứ Khỉ Ho Cò Gáy” pha trộn hiện thực trần trụi ở nông thôn với yếu tố kỳ ảo, trinh thám. Nhân vật chính, một người trẻ học thức về quê sống đời nhàm chán, bị xáo trộn bởi vụ án phóng hỏa kỳ lạ và cuộc gặp gỡ kẻ gây án đầy ám ảnh. Cuộc gặp gỡ này tác động đến anh, thôi thúc anh viết và tìm ý nghĩa trong sáng tạo. 

 

Một Hiện Vật

[Hiện Vật Trưng Bày: Nghị Lực Phi Thường Của Nhân Loại – Nghiên Cứu Trường Hợp 42.7]

[Nguồn Gốc: Terra (Hệ Mặt Trời III) – Thu hồi từ Khu Vực Quản Thúc Alpha-7 / Cơ sở Quản thúc-7 (Tên gọi theo người Terra: “Hầm theo dõi diễn tập ở Việt Nam”)]
[Niên Đại: Lịch Terra – Khoảng Thế Kỷ 21 Công Nguyên (Xem Bảng Chuyển Đổi Thời Gian)]

[Ghi chú của Người Xử Lý: Đây là “nhật ký”. Không biết người viết. Tài liệu này, nguyên bản được viết bằng một phương ngữ Terra gọi là “tiếng Việt” trên một vật chứa thông tin gọi là “sổ” đã bị hư hỏng nặng. Chuyển ngữ một ngôn ngữ đã thất truyền luôn thách thức đáng kể về ngôn ngữ, văn hóa, và sự diễn giải, không tính việc phải nhảy cóc và kết nối những phần bị thiếu. Người Xử Lý đã làm hết khả năng để bảo tồn ý định và sắc thái cảm xúc ban đầu của người viết.]

 

~~~

02-06

Tôi còn nhớ hồi đầu năm trước có thông tin về “Cuộc Chiến giữa các thế giới!”. Thông báo dội bom xuống mọi người đang đếm ngược ở phố đi bộ. Chuyện gì thật sự đã xảy ra? Tôi không nhớ rõ. Bản thân đang trải qua một cơn ác mộng dài mà hiện tại tôi mới tỉnh được đôi chút. Tôi biết mình đang ở trong một căn hầm trú ẩn. Vài hôm trước vẫn có người còn chút pin điện thoại, và cơm nước được phát đúng giờ nên tôi đếm được hôm nay là ngày mấy. 

Lâu rồi không viết nên chữ nghĩa cứ tù túng lại, tay thì mỏi nhừ còn đầu óc cứ bưng bưng. …

~~~

04-06

Cuốn sổ da này tôi không nhớ nhặt nó ở đâu nhưng chuyện nhặt được cây viết thì có. Hôm đấy là một ngày buồn chán. Mỗi người ngồi một góc. Cứ tụm lại xì xầm như thế được vài tháng rồi. Chẳng ai buồn đón Tết. Chợt có tiếng động trước mặt làm tôi tỉnh dậy. Âm thanh phát ra từ một cây bút bi tầm thường nhưng tương đối mới từ đâu rơi xuống. Thật ra, ý định ban đầu của tôi là dùng nó làm vũ khí, nhưng chợt nhớ ra cuốn sổ da trong ba lô, tôi lôi ra hí hoáy. Mực ra đủ đậm để đọc được trong cái ánh sáng lờ mờ. Ban đầu, tôi tính kí họa những gì xảy ra, phòng khi hai ngàn năm sau người ta khai quật cái xác này sẽ có sử liệu và bản thân sẽ không bị quên lãng. Nhưng cảm giác mực sẽ bị phí  bởi khả năng nghệ thuật của bản thân nên tôi chuyển sang việc ghi lại những gì đã xảy ra để có gì đối chứng bản thân đã không bị điên.

~~~

Chắc chắn không phải ngày 4 – 06 (?):

Tôi chẳng mang theo được nhiều đồ. Chắc gọi được một cuộc cho mẹ rồi mọi phương tiện liên lạc đều bị mất sóng. Tôi vào hầm này với chút quần áo, củ sạc điện thoại và pin dự phòng, Lúc chạy nạn, chẳng nhét bao nhiêu quần áo vào ba lô, thành ra chúng cứ lên nấm và vữa dần thành vải vụn. Đàn ông trong hầm cũng dần hình thành thói quen cởi trần. Tôi ngồi trong góc  ôm cái ba lô tựa vào thành kim loại của hầm lạnh cả sống lưng gà gật như bao ngày. Nước sạch đong theo chai chỉ dành cho uống nên chúng trở thành một dạng hàng hóa để trao đổi. 

Mùa hè nóng nực. Cái hầm hập, cái ngột ngạt cứ xộc thẳng vào mắt, vào mũi, vào miệng. Hệ thống điều hòa có vẻ đã hư, chỉ còn hệ thống thông gió. Không gian rút cạn sinh khí và sức lực của mọi người. Cái nồng nặc của mùi người cứ tích lũy dần và bóp nghẹt đường thở, nhưng giờ tôi quen. Nên khi mùi thịt thối bật lên thì cả hầm xôn xao. Tôi nghe đâu là một thằng nhóc ốm o trong hốc chết giống một con chuột cống. Tôi đoán có thể là nó bị gom vào đây khi chạy loạn nên không có ai coi sóc nên bị bỏ đói, bị bỏ mặc và phải tìm cách sống sót trong môi trường mà người lớn như tôi đã bị đẩy quá ngưỡng chịu đựng từ lâu. Có lẽ nó đã bị bỏ qua trong đợt di tản trẻ em chăng? Tôi không biết nữa, nhưng số phận quả thật quá tàn nhẫn. Cuộc chiến ngoài kia ra sao chẳng ai hay biết. Tất cả những gì có thể làm là chờ đợi.

[…]

Kể từ lúc tôi ghi nhật ký, suy nghĩ trong đầu đã liền mạch hơn. Những kí ức lần là lật giở khỏi bụi tàn của thời gian. Tôi cứ viết và viết. Tôi còn nhớ đọc ở đâu đó rằng bút bi có thể lăn mấy chục ngàn vòng quanh Trái Đất – chắc giờ bề mặt đã thay đổi đáng kể bởi cuộc chiến. Có điều đây là thứ bút dởm tiền với lớp nhựa đục và lõi bút cũng không trong suốt nên tôi không biết mình còn gì. Liệu mực sẽ hết và tôi sẽ phải ngưng tồn tại ở ngay câu tiếp theo hay tôi sẽ viết tiếp được vài tháng nữa để níu kéo chút tường minh đang thoi thóp? Tôi không biết

[…]

Thật sự thì kể từ lúc vào đây, bản thân như bị biến thành một con người khác vậy. Mọi ký ức, mọi kỷ niệm cứ bị xé vụn, đầy mơ hồ và trôi tuột xuống bồn cầu. Đúng là tôi có vào đây nhưng vào bằng cách nào và ra sao thì không nhớ. Bản thân bị một cánh cổng khổng lồ nuốt chửng là ký ức cuối cùng có sự hiện diện của ánh nắng mặt trời. Rồi tôi thấy mình hiện diện trong cái vòm khổng lồ đầy khốn khổ này. Tôi cố soi rọi tâm trí cũng không khả quan hơn. 

Có điều suốt mấy hôm nay tôi nhận ra có gì đó không đúng: Mái vòm này rộng thật – dù tôi chưa dám đi hết một vòng nhưng những người bên kia nhỏ như con kiến; cửa ra vào cũng nhỏ cỡ con kiến và luôn sáng đèn lẫn có người canh gác. Những kẻ đó không giống những kẻ đã hóa man di trong này: chúng có quân phục, súng ống, mang mặt nạ trùm kín. Nhìn từ xa tít cũng có thể khẳng định chúng không phải là người của chính quyền. Tôi chắc chắn chúng là những kẻ luân chuyển hàng hóa. Hẳn còn uẩn khúc tôi chưa biết, hoặc đã quên, hoặc không thấy. Nhưng khi ghi chép và xâu chuỗi nhờ việc hạ bút mọi thứ rõ ràng hơn hẳn.

Sáu tháng vừa qua là một cơn ác mộng tồi tệ, nhưng ít ra tôi đã tỉnh ngộ. Tôi không dám, cũng không muốn bắt chuyện kể về những phát hiện này. Chỉ còn có thể trông cậy vào bản thân mà thôi.

~~~

Quan sát hầm trú ẩn ngày 23 – tháng 6:

Mấy hôm nay tôi lần mò như một con mèo nhưng chẳng ai để tâm. Vòm rất rộng, chắc to hơn cả sân vận động Mỹ Đình nên dù có hơn trăm người nhưng bị tản mác thành nhiều nhóm nhỏ. Tôi cứ nhích từng chút một về phía mục tiêu của mình một cách thật chậm rãi. Khi không biết thời gian của bản thân còn bao nhiêu thì kiên nhẫn để đảm bảo cát đồng hồ không dứt bất thình lình nhiều đến bất ngờ.

Tôi nhận ra rằng công trình kích thước như thế này hẳn phải được chuẩn bị từ lâu chứ không phải muốn là xây xong trong ngày một ngày hai. Đặc biệt với cách chúng vận hành và sự quy củ. Cũng nhờ sự quy củ ấy mà tôi có thể đếm ngày tốt hơn. 

Bức tường lát phẳng nhưng có gờ rõ, dày ra cả vài tấc. Tôi đoán đấy có thể là một dạng ống chạy ngầm. Tôi cứ căng theo cổng có lính gác mà cứ thế mỗi ngày vòng theo tường, tới lui vài lần để rút ra kết luận cay đắng chỉ có một đường vào ra. 

Tôi đã thấy cánh cửa rõ hơn: Làm bằng kim loại và sáng lóa dưới;  khi nó được đóng mở thì đằng sau có một lớp giống như cách người ta phủ rèm ngăn lạnh màu đen – dù cố gắng nhiều lần nhưng tôi không thể nhìn rõ đằng sau là gì; cánh cửa dày chắc bom pháo không làm suy chuyển. Bọn lính canh không nhập khóa hay chìa mà chỉ xoay van để khóa và mở.

Tôi cũng thấy chúng rõ hơn từ khoảng cách này. Hình tướng của chúng từa tựa nhau. Mặt nạ kiểu nón bảo hiểm trùm kín. Chúng không nói chuyện nên tôi bán tín bán nghi liệu chúng có phải là rô bốt nhưng tôi có thể thấy lồng ngực chúng dịch chuyển; chúng đổi ca và có trao đổi gì đấy sau bức màn mỗi khi cửa mở. Loại súng của chúng, tôi từng thấy trên phim ảnh, nhưng mỗi kẻ một loại khác nhau. Đó là những gì tôi có thể quan sát được.

~~~

Tháng 7:

Dạo này khi nghỉ và ngủ tôi tìm đến chỗ có rêu nằm cho mát. Dù gì chúng cũng êm hơn sàn xi măng. Ban đầu bản thân bị khó chịu bởi hơi ẩm nhưng rồi cũng quen. Ít ra chúng gợi được cảm giác nằm máy lạnh nhắm mắt vào một ngày mưa cuối tuần tìm cách quên hết mọi áp lực. Một ngày như vậy tôi sẽ làm gì nhỉ? Sắp xếp cuộc gặp với bạn bè cà kê cà phê? Gọi về hỏi thăm tình hình? Dành một buổi cho bản thân ghép mô hình rô bốt? 

Để cho đỡ bực tôi bứt rêu dồn lại thành một cái gối nhỏ.

[…]

Lại một người nữa chết – không phải do bị bỏ mặc mà bị đánh đập. Lúc đó là một lần phát thức ăn như thường nhật. Khẩu phần vẫn là chai nước suối và một bịch lương khô. Tôi đang gặm cho mềm thì nghe có tiếng khóc thất thanh. Nó rất yếu như thể người bị hại đang bị bịt miệng. Tôi dỏng tai. Nếu tình huống này mà thấy ở trên phố phường thì tôi đã truy hô nhưng giờ cầu cạnh ai? Cơ thể này cũng yếu ớt và rệu rã – Cầm cây bút viết mà cũng run rẩy. Tôi chẳng làm anh hùng nổi nên đành gặm nhấm lương tâm, cắn răng nghiến hàm im lặng. 

 

Giọng phụ nữ kia im hẳn. 

[Khoảng trắng lớn trong văn bản gốc]

Đêm nay tôi nghe thấy tiếng huỵch ở góc tường. Tôi lần ra kiểm tra thì bị một trong những kẻ “thống lĩnh” hiện tại của căn hầm gầm ghè. Trong này khoảng một phần tư là phụ nữ, và họ cũng đang dự cảm cho số phận của mình. Tôi chỉ biết thở dài và lén lút tìm cách xác nhận khi bọn “thống lĩnh” rút đi. Quả thật là xác của một cô gái. Trong cái sáng lờ mờ, tôi vẫn thấy rõ vết hằn trên cơ thể. Đồ cô rách bươm. Cơ thể cô lõa lồ. Hình như vùng dưới vẫn còn dịch rỉ ra. Mắt cô trừng trừng để lôi tất cả những kẻ đồi bại chết theo. Tôi chỉ còn biết khép mắt cho người đã khuất rồi kiếm chỗ ngồi khóc.

Tin tốt là có quần áo mới nhưng vẫn không có nước tắm. Dạng thức của chúng xêm xêm áo tù, mặc vào chẳng khác gì phạm nhân. Trên mỗi áo đều có một mã QR, nhưng do không còn cái điện thoại nào sử dụng được hay mạng internet nên tôi không rõ nội dung của mã. Tôi quyết định chỉ giữ cái quần cho mình và phủ lên người cô cái áo sạch.

~~~

Có lẽ vẫn là tháng 7:

Cô ấy cũng được dọn đi khi đợt chuyển hàng tiếp theo tới. Hai gã mặt non choẹt của nhóm “thống lĩnh” lấy miếng vải bịt mũi, cứ khịt khịt khi phải động vào cái xác. Có thể chúng khóc thương hoặc chỉ đang kinh tởm thứ trương sình trước mũi mình. Dù gì đi chăng nữa, tôi vẫn mừng thầm chúng còn chút cảm giác là người.

Có lẽ sau vụ việc kia, chẳng còn ai muốn chống cự, để bọn đầu gấu kia muốn làm gì thì làm. Tôi dám chắc mình có thấy đồ hộp, thịt và cả nước ngọt trong những kiện hàng được chuyển tới, nhưng có lẽ bọn kia đã lũng đoạn cả. Một số cô có thịt để ăn kèm với lương khô đều bị tránh xa như thể bị hủi. Dần dà hình thành hai nhóm: một là những kẻ còn đủ khỏe tập hợp lại thành một băng để kiểm soát nguồn cung thực phẩm, và phần còn lại là giống tôi – biết nhưng buông xuôi, mặc kệ, hoặc đơn giản là không thể làm khác. Mà ít nhất tôi có nhật ký để ghi lại, chứ không như mọi người bí bức chẳng biết giải tỏa như thế nào. Tôi có thể nghe những thì thào trong đêm vội nín bặt khi những kẻ “thống lĩnh” xuất hiện. Thỉnh thoảng, có một thanh niên chưa trải sự đời đứng dậy đòi thịt cho tất cả nhưng ba đánh một không chột cũng què huống hồ là một nhóm khỏe mạnh có vũ khí. 

Tôi phải tìm cách thoát khỏi đây. Có thể bên ngoài đầy bụi phóng xạ hay virus chết người, nhưng ít nhất tôi được quyền chết theo cách tôi muốn, chứ không phải trốn chui trốn nhủi như con chuột trong này.

~~~

Tôi đoán mình đã dành ra một thời gian kha khá quan sát và nhớ lại. Giờ thứ đáng tin duy nhất là trí nhớ của bản thân cùng những dòng chữ này. 

Thời điểm chính xác có nhóm thống lĩnh không rõ ràng, nhưng khi chúng xuất hiện kiểu mọi chuyện vốn dĩ phải thế. Trước đây khi hàng tới bọn lính cứ đẩy thẳng hàng tiếp tế ra giữa vòm để mọi người tự xử. Khi quần áo mọi người còn sạch, người ta còn chịu xếp hàng ngay ngắn và nhường cho phụ nữ trẻ con. Đạo đức cứ thế thất thoát dần, tỉ lệ nghịch với sự dơ dáy ngày càng tăng.. Một ngày nọ bọn “thống lĩnh” hô hào để chúng chia, và chúng giữ giùm. Không ai cữ cãi vì tất cả đều đã kiệt sức và tuyệt vọng. 

~~~

Ghi chú:

– Luôn có hai lính gác có vũ khí ở cổng. Không có thông tin cụ thể nào về chúng

– Mỗi hai tuần sẽ có một lần chuyển hàng. Đó là lúc bọn lính gác rời cửa.

– Bên kia cánh cửa có đèn.

– Hàng được chuyển cho nhóm thống lĩnh rồi chúng phân phát cho mọi người.

– Nhóm lính gác có yêu cầu tối thiểu về việc phân phát. Chúng quan sát và trao đổi với những đối tượng sau tấm rèm nhựa.

– Bọn “thống lĩnh” có súng.

~~~

Cuối tháng 7:

Tôi không biết cuộc chiến đã kết thúc chưa, hay thậm chí là có cuộc chiến có thật sự diễn ra và người ta sẽ giam lỏng chúng tôi đến bao giờ- Có thể đây là một cuộc thí nghiệm độc ác. Mà cũng khá hay ở chỗ mọi thứ không hoàn toàn hỗn loạn và hoang dã, thậm chí còn sót lại đó chút tôn ti trật tự – nhờ bạo lực và quyền lực. Các cô gái được băng đảng bảo kê, các mẹ và dì thì không. Thanh niên nào còn khỏe sẽ xin nhập bọn. Tốt nhất là cứ bình tĩnh quan sát, dò hỏi và lên kế hoạch thêm. Tôi thân cô thế cô, không nên bứt dây động rừng.

Tính ra nhờ sự kham khổ trong này mà tôi đã giảm cân thành công – cái bụng phệ mà trước đây tôi tìm đủ cách kiêng khem, tập luyện để gọt đi nay đã biến đâu mất. Nếu có gương tôi đoán chắc gương mặt đã có thêm nhiều vết chân chim. 

Tôi nghĩ là tôi đã già. Ba mươi chưa nhỉ? Tôi chẳng nhớ nữa. Mới vài tháng trôi qua tôi đã quên tên mình. Chẳng cần dùng vì chẳng ai cần định danh trong cái hầm chết tiệt này. Buồn cười nhỉ? Nhưng giờ bản thân vô cùng tỉnh táo: thấy hết, nghe hết, sẵn sàng liều chết để giành giật tự do. Tôi đã thành người khác. Có lẽ ông bà tổ tiên ngày xưa cũng như thế này, lúc nào cũng trong tư thế sẵn sàng chết. Chúng ta đã an toàn trong những bức tường mà quên mất nguy hiểm thật sự như thế nào. Cứ khóc than cho những vụn vặt vô hình mà không biết ơn. 

Giờ tôi chỉ cần quần áo sạch, một góc nhà thoáng đãng có nắng hắt vào, nghe được tiếng xe cộ rền rền là đủ. À, thêm nồi cơm mới bắt, thêm một dĩa rau mới luộc, hỏi han xem mẹ còn nhức chân không, bố vẫn còn thua cờ mấy ông hàng xóm chứ. Viết tới đây, nước dãi và nước mắt chảy ra.

Tôi nghĩ mình đã khóc cho tất cả mọi người trừ thân này, nên đêm nay thôi tôi sẽ khóc cho mình, giống ngày xưa trước khi đi ra khơi xa hay ra tiền tuyến sẽ làm sẵn đám ma cùng bài vị vậy.

~~~

Kế hoạch:

+ Giật súng của tên đầu sỏ. Sẽ bị xử lý ngay. Không thể một chọi một trăm.

+ Kích động và nổi loạn. Những người còn lại quá yếu mà chưa có ai chết đói. Nhóm “thống lĩnh” nắm thực quyền nên sẽ không ai nghe lời người lạ thân cô thế cô này.

+ Canh chừng và vượt qua cổng. Đây là cách khả thi nhất. Cứ thế chạy ù ra. Không có gì vướng trên người, tức là phải bỏ lại cái ba lô cùng mọi thứ khác.

~~~

Ngày trước ngày trọng đại, tháng 8:

Nếu đếm không nhầm thì mai là ngày chuyển ca và giao thực phẩm. Cơ hội đã đến. Lòng này nóng như lửa đốt, nhưng tôi lại không muốn viết dài. Sống đã. Viết sau. Giờ nói nhiều cũng chẳng để làm gì. Cơ hội sống sót rất thấp, nhưng ít nhất tôi phải thử. 

Tôi chột dạ rằng nếu mà bị bắt lại, hẳn cuốn nhật ký này sẽ bị tiêu hủy nếu nó bị tìm thấy. Thêm vào đó, mực càng ngày càng nhạt nên tốt nhất là dừng bút và chỉ ghi những câu quan trọng như “Tôi đã sống”. Tôi sẽ cất nó vào góc nào đó kín kín và cầu nguyện mốc sẽ không ăn mất những con chữ này. Hi vọng ngày trở lại cuốn sổ sẽ còn đây để tôi viết tiếp.

Truyện: Đọc “Câu Chuyện Dòng Sông” (cạnh quan tài của ông)

Tôi còn nhớ ông luôn trả lời mọi câu hỏi ngây thơ của tôi ngày bé trừ thắc mắc hiển nhiên sau:

“Bà chắc sẽ lên thiên đường nhỉ…?”

Sau này tôi mới biết mình vô ý tới chừng nào nên chẳng trách ông không nói gì mà chỉ nhìn rồi mỉm cười.

Dần dà tôi lớn, ít hỏi hơn; những câu hỏi còn lại cũng chẳng còn tí ngây thơ và thành tâm nào. Chuyện học, chuyện làm và chuyện tình chiếm hết sự chú ý của tôi. Và đến một cái Tết nọ về quê cùng gia đình thì tôi nhận ra ông thật sự đã già.

Tôi còn nhớ ngày thơ bé, khi quê tôi chưa lên hẳn thị trấn – mọi người chưa có tiền xây nhà, ông hay chở tôi trên cái xe đạp nhỏ ra ruộng hay ra đài Chiến Thắng. Tôi cứ ngồi im đấy để bóng lưng che nắng. Lộc cộc tiếng sên trộn dầu cùng mồ hôi tạo thành một hỗn hợp kì lạ mà hễ ra tiệm sửa xe thì những kí ức ấy lại ùa về. Giờ thì ngược lại: Ông ngồi khòm trên chiếc xe lăn bôi dầu đầy đủ; tôi đẩy ông ra phòng khách nhẹ tênh, rồi đẩy ông vào nhà vệ sinh để dì xử lý, rồi lại ngồi nắm bàn tay nhăn nheo đầy đồi mồi trong tiếng mô Phật ề à từ cái máy tụng rè rè. Thỉnh thoảng tôi có hỏi, có nói thì ông ngước lên – con mắt mờ đục đằng sau tròng kính lão dày cộp vẫn đầy sự ấm áp. Và không lời nào thốt ra khỏi vòm miệng đã móp xọp. Thời gian là một thứ đáng sợ. Trước hết là bà. Rồi sẽ tới ông. Và tôi? Và ba? Mẹ? Em? Dì? Chú? Bác? Con chó Bông? Sau tất thảy còn là gì? Có lẽ ông không thể trả lời. Và tôi nghĩ mình hiểu lý do tại sao lại có sự im lặng đấy.

Mỗi năm về quê dịp Tết tôi đều thấy ông lặng như tảng đá, nhìn xa xăm với tấm thân khòm trên cái xe lăn nhưng tay vẫn chắc gậy, mắt vẫn “sáng” khiến tôi quên mất mình đã từng có thời được ông bế bồng, chơi đùa. Là ông hay không phải là ông? Tôi có cảm giác ông đã bị chuyển sang trạng thái ốm yếu ấy từ rất lâu rồi nhưng giờ mới bộc phát ra. Hay chỉ đơn giản là sinh, lão rồi bệnh? Ông giống một cây cổ thụ vậy, cứ im lặng tạo nên sự yên bình cho con cháu mỗi dịp Tết đến xuân về kể từ ngày bà mất. Ông cười nhẫn nại hiền từ trước mọi biến cố và tin vui, là chỗ dựa cho cả đại gia đình – nói không ngoa ông là cột trụ của cả dòng họ.

Nhưng cây luôn mục gãy ở khắc mà ta không bao giờ ngờ tới.

Đó là một ngày làm việc bù đầu khác trên công ty thì có điện thoại từ người thân: Tôi không thích như vậy vì tin tốt và hỏi thăm đều đã qua Zalo cả rồi – chỉ có tin dữ là phải gọi báo liền. Thêm nữa đấy là số của ông bác “gấu” nhất nhà. Tôi hít vài hơi thật sâu trước khi kiếm chỗ khuất và nhấc máy.

“Về ngay con nhé. Ông có chuyện.”

Tôi ừ ừ dạ dạ. Dù gì cũng là thứ Năm rồi. Tôi hỏi thăm tình hình của ông trước khi quyết định thêm.

“Ông tăng xông. Giờ đang ổn định.”

“Vâng, vậy để con sắp xếp tối thứ Sáu về…”

“Mày có bị khùng không?!” Bác tát tôi. Màng nhĩ còn run bần bật.

“Dạ?”

“Mày có bị khùng không? Chờ tới tối mai? Có những thứ mày có muốn cũng không thể nào có lại được. Không về đừng có hối hận!”

Tôi đứng nhìn hình ảnh phản chiếu của mình trên mặt gương đen của điện thoại. Tai vẫn còn ù. Tôi ngoảnh lại chỗ bàn làm việc, nhìn những gương mặt nghiêm túc, những ô bảng tính, cái ghế, rồi cái máy lạnh o o trên đầu. Chân đột nhiên mất cảm giác. Tim đập mạnh. Một sự chênh vênh ập tới làm bản thân đứng không vững. Tôi vội xin sếp về để bắt chuyến xe sớm nhất.

Tôi không mang nhiều đồ lắm, chỉ nhét quần áo đủ cho hai ngày vào ba lô. Nếu có chuyện thì đủ đồ xoay tua; nếu không thì có thể xem đây là kì nghỉ ngắn ngày ở quê. Ngoài ra, tôi cũng mang theo quyển Câu Chuyện Dòng Sông, dự tính cầm theo để đọc nhằm (giả vờ) hạn chế việc dùng điện thoại. Mọi phương án đã được chuẩn bị, giờ chỉ có thể nín lặng chờ đợi.

Tôi đi xe giường nằm. Đường về quê khoảng sáu tiếng nhưng giờ mới chỉ trôi qua ba tiếng. Bên ngoài, ánh đèn vàng thờ ơ soi lớp nhựa đường xám xịt. Cái lạnh trườn qua miếng vải mỏng, xuyên qua cả áo khoác, áo thun, làm cả người tôi run bần bật. Sương giăng mờ cửa sổ. Tôi cố ngủ, nhưng tim đập quá mạnh, không sao nhắm mắt được, cứ thế xoay người trở mình trong cơn lim dim không ổn định bởi những gờ giảm tốc. Hành khách khác họ ngủ ngon lành, hoặc xem điện thoại, hoặc rì rầm với nhau. Tôi không nghĩ mình có thể chợp mắt trong tình trạng này nhất là khi lòng đang bị dằn để tránh cơn lo sợ trồi lên. 

Anh lơ kéo tôi ra khỏi trạng thái khốn khổ ấy bằng câu thông báo gọn lỏn. Ừ phải đối mặt với hiện thực thôi.

Tôi tới nơi thì cả nhà đã tề tựu đông đủ. Tôi chỉ biết chờ đợi, chào hỏi trong trạng thái bết bát và đói bụng. Ông nằm trong nhà từ đường trên cái ghế xếp cũ có khung sắt tróc gỉ. Các bác, các chú, các dì tập trung xung quanh, những đứa cháu thì ở vòng ngoài. Có những xì xào. Bình oxy im lặng nhìn tất cả.

Chỉ một tiếng từ khi tôi về tới, bác lớn trong nhà đã quyết định rút ống thở do tim ông đã quá chậm.

Ông được đưa ra nhà lớn ngoài lộ thì nhà tang lễ cũng vừa đến. Có người gọi thầy hỏi về giờ giấc chôn cất. Ông được tắm rửa sạch sẽ, trang điểm nhẹ rồi được úm lại và che mặt. Các dì và các em thì tranh thủ lấy giấy báo cũ dán các mặt kiếng lại. Mọi thứ diễn ra một cách trơn tru và im lặng. Chợt cụm từ “hồi quang phản chiếu” bật lên trong đầu: Ông chỉ ra đi khi tất cả những người có thể tới đã tới.

Tôi lặng lẽ trôi theo những nghi thức cần chuẩn bị đến ba giờ sáng, rồi đi ngủ theo yêu cầu của các bác.

Khi tôi thức dậy thì đồng hồ điểm bảy giờ. Không có tiếng gà gáy chỉ có tiếng kèn, tiếng người, tiếng dọn dẹp. Tôi vội vàng xuống phụ vái lạy trả: Với người nhà thì gật, chứ người ngoài họ vái bao nhiêu cái mình phải vái lại bấy nhiêu – làm vậy để khách viếng có cảm giác được tôn trọng và không bị tổn thọ. Thêm nữa, khi cúng cơm cần phải quỳ trên chiếu cói, nên toàn thân tôi căng cứng, cộng với trạng thái thiếu ngủ, chồng lên những tiếng ồn ào lẫn áp lực của đám tang, khiến tôi tưởng ban ngày trôi nhanh như một cơn mơ.

Thỉnh thoảng, tôi thấy mình trong cơn mộng du ngồi đọc “Câu Chuyện Dòng Sông” cạnh quan tài của ông trong lúc ngồi chờ khách viếng.

Tôi không chắc ông có thích đọc hay không, vì từ nhỏ đến giờ đã không thấy bao nhiêu sách báo trong nhà từ đường. Nhưng tôi dám chắc ông từng đọc, không ít thì nhiều, vì bản thân ông là một chiến sĩ quân y. Có điều rốt cuộc ông thật sự là ai thì tôi không trả lời được. Giờ muốn tìm hiểu thì đã quá trễ. Tôi nhớ thỉnh thoảng mình hỏi ông được mấy câu về chuyện ngày xưa, vì hầu hết những câu hỏi ngày nhỏ chỉ đến từ sự ngây thơ của đứa trẻ nhỏ; trong khi đó, những câu hỏi ngày lớn chỉ toàn là những thủ tục lễ nghi, và khi ông bắt đầu lẫn thì cách hỏi và trả lời giống như trả bài hơn – kết hợp với sự kiên nhẫn vô cùng lớn khi lặp lại chủ đề nhiều lần. Nhưng há chẳng phải ông cũng đã kiên nhẫn với tôi như vậy sao?

Ban đêm khi khách đã vãn, chỉ còn người nhà và những người bạn thật sự thân thiết của gia đình ngồi tụm lại với nhau. Quê tôi là một thị trấn gần biển nên càng về khuya gió càng lạnh. Cà phê, trà và hạt dưa sẵn sàng cho vài buổi cà kê xuyên đêm. Khói nhang và khói thuốc tản ra trong gió, giúp không khí ấm hơn. Nồi lẩu, hải sản cùng bia đưa đưa lên cho những ai có nhu cầu – rất nhiều người. Cả ngày đã vất vả thì chút thức khuya ăn lót dạ , chút tâm sự ồn ào để đỡ nhớ rằng ông sẽ im lặng đến đời của mỗi người thật đáng quý.

Tôi thì dành phần lớn thời gian ngồi trong góc đọc tiếp “Câu Chuyện Dòng Sông” cho xong trong ba ngày tang lễ – một dạng mục tiêu và công việc để giúp bản thân quên đi rằng ông đang an giấc ngàn thu bên cạnh. Quyển sách được quảng cáo cũng rất ghê gớm, nào là đạt giải Nobel, nào là Đông Tây cổ kim kết hợp, hơn nữa còn là sách cấm trước năm 1945 ở Đức. 

Thật ra quyển sách không có gì nhiều. Đó là một câu chuyện về một chàng trai sinh cùng thời với Đức Phật và truy cầu sự giác ngộ theo cách riêng của mình. Đến già, sau khi lên voi xuống chó, thử nhiều phương pháp tu tập khác nhau, rồi làm một bác lái đò bên sông, lúc này chàng mới nhận ra trái tim phải im lặng và lắng nghe. Đó là một câu chuyện đơn giản, nhẹ nhàng, được cụ Lê Chu Cầu dịch nên hành văn thì chắc tay mà đọc vào lại dịu dàng như tính cách nhân vật vậy.

Thật tình, tôi không rõ vì sao mình mua cuốn này. Tôi biết mình không muốn nghĩ về một số vấn đề, nhưng từ trước cuộc gọi của bác, có lẽ từ lúc tôi biết ông đã già, thì việc tôi ráng đọc sách “kinh điển” để làm dày bản thân mình hơn để chuẩn bị cho những điều bất ngờ. Tôi nhớ có câu rằng vấn đề càng lâu đời thì người ta chỉ tìm lại và tái khám phá những chỉ dạy từ quá khứ. Cái chết cổ xưa hơn con người. Học những bài học cũ chẳng có gì sai ở đây cả. 

Nhưng cái mắc cười hơn nữa là tôi lại quyết định mang theo cuốn này khi biết rằng bản thân sẽ phải đối diện với tin dữ. Lòng tôi đang mong chờ điều gì? Một cuốn sách giải quyết mọi câu hỏi liên quan đến cái chết, đức tin và tôn giáo trong lòng nhờ cái bìa có in hình Đức Thế Tôn? Tôi không dám khẳng định. Tôi đã có thể viện dẫn Kinh Thánh và mong đã ông nhận đủ tình yêu để lên thiên đàng gặp bà; tôi có thể truy nguyên Chí Tôn Ca và mong mỏi vũ trụ sẽ nhận ông về; hoặc đơn giản là mấy ông sư mấy ông thầy tụng gì nghe đó, dặn gì làm nấy để mình tự nhiên an lòng vì đã nghe lời chuyên gia.

Tôi rút ra kết luận rằng có lẽ một cuốn sách như thế sẽ thích hợp để đọc và dằn lòng trong những dịp thế này. Vì ít nhất người ta biết còn tôi thì không.

Lễ động quan diễn ra lúc gà gáy sớm. Lại kèn trống và những tiếng người. Bác lớn trong nhà, giờ cũng đã lên chức ông, đọc một bài phát biểu. Tôi không dám cười lớn. Hội cựu chiến binh cũng cử đoàn đại diện và phủ lên quan tài một lá cờ Tổ Quốc hơi sờn.

Tôi cầm di ảnh đi đầu. Nắng sớm miền Trung gắt gỏng dõi theo. Đoàn người ra cánh đồng mà ông bà ngày xưa khai khẩn, ở đó có nghĩa trang gia đình, là nơi bà đang an nghỉ – và nay đến lượt ông.

Phần mộ của ông nằm cạnh bà. Đất khô khốc do phơi lâu ngày – dù gì cũng hơn mười năm rồi. Mọi người tập trung cúng kiếng, rồi lễ hạ huyệt chính thức diễn ra. Bên Hội Cựu Chiến Binh lấy lại lá cờ – chắc để dùng cho đám khác. Nhìn quan tài dần chạm đáy huyệt, dần được phủ đất lên, khiến tim tôi đập mạnh. Giờ không phải đám tang bà, tôi cũng không còn là một đứa trẻ không phân biệt được rằng trong triết lý đạo Phật chỉ có luân hồi và tu tập chứ không có thiên đường như các tôn giáo độc thần, Cũng không có thế lực chủ quản như Bà la môn – Cái người ta làm là cái người ta chịu. Nhưng sao một cảm giác vô chừng lại trào lên dữ dội?

Tôi không thể hỏi về việc ông có thể lên thiên đàng hay không, và cũng không thể trả lời bất kì câu hỏi nào giống thế.

Tôi phải im lặng.

Đất được lấp lại. Giả sử không có mộ phần, sẽ chẳng có ai biết được ông nằm bên dưới hoặc tôi đã từng đứng đây. Xong một kiếp người đi qua gần một thế kỉ mà sự toàn vẹn bị rơi rớt lại chỗ này chỗ kia như cách cây lớn bị mối mọt đục rỗng; một đời người có chắt, có sự nghiệp viên mãn, tương đối khỏe mạnh đến cuối đời và trường thọ, nay ra đi thanh thản. Một đời người khác đang lưng chừng sự nghiệp chưa vợ chưa vững vàng nay thiếu mất một chỗ bám víu quan trọng, lại còn không biết thập kỉ tới sẽ như thế nào, hay phải để mình trôi theo dòng mà liệu cơm gắp mắm. 

Tôi đã im lặng.

Ông trả lời rồi.

Đám tang kết thúc. Ai về nhà nấy. Cây vẫn xanh. Gió vẫn thổi. Ngoài rìa của thửa đất ruộng, dòng sông vẫn chảy.

 

Tác phẩm: Ở Xứ Khỉ Ho Cò Gáy

Xứ khỉ ho cò gáy trên vùng cao nguyên này quá buồn chán nên tôi quyết định đọc kinh, của Phật hay của Chúa không quan trọng. Tôi đọc xong để dành trong bụng chứ đầu óc này vô minh không hiểu nổi: Điều vừa kể vô nghĩa như mọi điều khác tôi làm từ trước đến nay, trừ việc viết câu chuyện sau đây. 

Trước khi đi xa hơn thiết nghĩ nên có vài dòng về tôi và bối cảnh: Xã này bị cô đặc và ép chặt thành một viên con nhộng nuốt vào sẽ đưa ta về hai mươi năm trước dù sự hiện đại vẫn hiện diện qua thiết bị sinh hoạt. Đất và người không đổi nên lứa trẻ luôn tìm cách rời đi tới thành phố lớn. Tôi cũng vậy: Năm cấp ba tôi là một trong số ít đứa ở trường huyện đậu đại học; tôi học đại để có tấm bằng làm làng nhàng vài năm ở thành phố để rồi lại bật bãi về quê. Có lẽ tôi không bỏ được bản tính chán chường yếm thế nên thất bại là tất yếu.

Cuộc sống ở chốn này không tệ vì tôi không phải lo về vật chất – Giống con chuột lang ở trong lồng. Công việc của chuột lang là ăn uống ngủ ị và trèo lên bánh xe chạy vài vòng, tôi cũng vậy. 

Con chuột chỉ cần sống. Tôi cũng chỉ cần sống nhưng hai định nghĩa khác nhau hoàn toàn. Thỉnh thoảng có một sự vụ diễn ra, chúng không có gì quá nổi bật và chẳng đủ thu hút để phải kể lể trên internet với người lạ. Tất cả những câu chuyện ấy kẹt lại ở trên nút giao huyện lộ và tỉnh lộ và phải tức tưởi về lại cái vùng đất khỉ ho cò gáy. Tôi thấy chúng cũng mua vui được vài trống canh nhưng có một sự vụ tôi quyết định mình cần ghi đầu đuôi những gì đã thấy, đã nghe; ghi lại quá trình sự kiện diễn ra để sau này khi đầu óc không còn minh mẫn, trí nhớ bị vẩn đục thì vẫn có bản ghi này để không quên. Và chứng minh tôi đã sống.

***

Đó là một hôm lạnh như nhiều hôm khác ở vùng cao khỉ ho cò gáy. Kế hoạch gồm trà bắc cho bữa sáng, bia và mực khô nướng cho buổi tối. Tôi có thằng bạn cùng bàn thuở thiếu thời – bố nó đi kinh tế mới cùng đợt với bố tôi nên hai nhà khá thân. Nó vào được trường Công An – tôi thì không nên dạt ra đại học tư. Mất liên lạc mấy năm, giờ cả hai gặp lại và cùng sống mòn tại vùng đất khỉ ho cò gáy này khiến cho chúng tôi thân thiết hơn xưa. Tôi đang cần bạn nhậu nên gọi nó.

Đồ nhậu được bày ra cạnh bếp than hồng khi sương bắt đầu giăng xuống. Mực nướng phát tiếng xèo xèo và săn lại. Bia lẫn đá được khui và trút vào can to. Bọt sủi. Người ngồi. Tôi nói:

“Sao mày?”

“Sao là sao?” Bạn tôi hỏi.

“Nay nhậu sớm?” 

“Tao thấy stress.”

“Là do vụ phóng hỏa à?”

Nó chỉ gật.

Vùng đất của chúng tôi không có khách vãng lai nhưng vẫn có nhà nghỉ cho những nhu cầu khác, do vậy lễ tân chẳng bao giờ hỏi thông tin khách hàng và căn cước. Hơn nữa theo lời khai thì kẻ gây án này đi một mình với bộ dạng khá là bết bát. “Nhìn vào là biết đang phạm tội”, lễ tân từ hôm đó đến giờ cứ luyên thuyên bất cứ khi nào được hỏi. Hành vi gây án của hắn cũng rất bất thường và có phần biến thái: Bằng một cách nào đó hắn đã mua được chục can xăng để rưới khắp nhà nghỉ. Lễ tân không cản nổi nên bỏ chạy đồng thời báo công an. Khi lực lượng hữu trách tới thì đã quá trễ: Một cột lửa lớn khủng khiếp dựng tới trời thắp sáng cả vùng. Rất may đám cháy đã không lan rộng và được dập tắt kịp thời. Mọi chuyện những tưởng chỉ dừng lại ở đó nếu đối tượng phóng hỏa không lõa thể và quỳ mọp trước đám cháy; còn công an cũng không thể tìm thấy bất kì giấy tờ tùy thân nào của hắn. Ở vùng như thế này nhìn vậy chứ thông tin liên lạc vẫn còn bất tiện: Đã đưa mọi bằng chứng và lời khai thu thập được lên tới cấp tỉnh rồi mà vẫn chưa được hồi đáp. Đối tượng lúc nào cũng im lặng nhưng luôn hợp tác trong khi được hỏi, trừ việc không bao giờ khai lý lịch của bản thân. 

“Hắn luôn miệng bảo mình chết rồi. Kì lạ. Khi đưa đối tượng về đồn tao cũng hơi ghê. Phải thẩy cho cái chăn và cái áo khoác chứ chẳng lẽ để hắn tồng ngồng suốt từ chỗ nhà nghỉ về chỗ tạm giữ? Mày hình dung được mà. Cơ mà tao bảo gì thì làm nấy. Rất ngoan.”

“Tao đang hiểu đây là một vụ phóng hỏa kì lạ với động cơ không rõ ràng.”

Thằng bạn thở dài, tìm tài liệu trên điện thoại rồi đọc thành tiếng:

“Ta đã mắc nợ người em của mình và mắc nợ cuộc đời này. Việc ta cần phải làm là tạ tội. Ta đã sống cuộc đời của một kẻ ác. Ta đã tự đày ải mình trên những sàn đấu để liếm máu tươi. Nhưng con đường đó đâu thể đi hoài. Nên ta hoàn lương ngoài mặt tìm về gia đình ăn năn hối cải cho đỡ khổ dù trong lòng vẫn không cam. Người em của ta đã giúp ta, mở rộng vòng tay đón kẻ tội đồ này về như một đức thánh nhân từ sẵn sàng tha thứ. Và ta đã phản bội lòng tin đó. Chỉ vì một tờ vé số trúng độc đắc. Ta đã nghĩ ta chỉ đơn giản là vô minh. Ta đã tham, ta đã sân, ta đã si. Sự thật là lũ quỷ trỗi dậy từ tận sâu thẳm trong tâm hồn và chúng chiếm lấy thân xác này làm trò xằng bậy! Rốt cuộc ta đã hại em trai, đã hại đời ta và hại những con người vô tội khác.”

“Xí, mày nghĩ hắn ta cố ý ghi như thế này để được giấy chứng nhận tâm thần à?”

“Có thể.”

Tôi nhai một chút mồi. Mực dai như cao su hòa với cay dầu của tương ớt công nghiệp tạo thành một loại hóa chất cần được rửa trôi bằng bia nhạt, nhưng khi đã nuốt xong thì lại buồn miệng. Cứ thế  cả hai thi nhau phá mồi và tán gẫu:

“Mày để hắn viết cái này à?” Tôi hỏi.

“Ừ. Hắn hứa sẽ khai hết. Lúc đó thấy cũng hợp tác nên tao cho qua, ngồi uống trà chờ.”

“Không lấy điện thoại ra bấm bấm?”

“Phải để mắt đến đối tượng chứ mày.”

“Mà hắn viết dài không?”

“Dài hơn hồi đó tụi mình tập làm văn.”

Mặt trời sắp bị đỉnh Phrăng nuốt chửng. Ánh hoàng hôn le lói yếu ớt sau những rặng mây làm không gian tối hơn so với thông thường. Tôi khui lon nữa, rót cho cả hai rồi hỏi:

“Thế sau đó?”

“Sau đó gì?”

“Thì hắn ta viết cái gì nữa?”

“Tao đọc hết nổi rồi, mày tự đọc đi.”

“Mà đưa tài liệu điều tra thế này không sợ à?”

“Sợ gì? Người ngoài đọc được tưởng thằng điên nào đó viết thôi.”

Bạn tôi gửi tệp đánh máy ấy sang. Tôi đọc ngay. Đó là một câu chuyện lâm li nhưng lời lẽ đanh thép kể về quá trình đối tượng đẩy ngã người em trai của mình, chạy trốn và run rủi đi đến xứ khỉ ho cò gáy. Trong quá trình chạy trốn, có vẻ hắn đã gặp phải ảo giác về một nhân vật được gọi là “Kẻ Đòi Nợ”. Tôi thấy nhân vật này được miêu tả giống Judge Holden nhưng là một kiểu cùng cổ mẫu vô tình trùng hợp chứ chẳng có sáng tạo. Đối chiếu những chi tiết mà đối tượng ghi lại với lời khai của lễ tân, tôi có thể kết luận những điều xằng bậy mà Kẻ Đòi Nợ đã làm chỉ là bịa đặt để đổ lỗi và trốn tránh trách nhiệm. 

Có điều kẻ phóng hỏa tự thú về những lầm lạc trong quá khứ. Nhiều đoạn ghi lại suy nghĩ của hắn về đời. Nhiều đoạn hắn tự vấn lương tâm. Nhiều đoạn hắn tìm cách kể lại nhưng không thể diễn tả điều không thể nói ra thành lời. Tôi càng càng thấy mùi tanh của mực trào lên từ bao tử và mùi nồng của cồn công nghiệp đục vào xoang.

“Thế mày thấy thế nào?”

“Tao không biết, nhưng giống ông chủ tập đoàn cà phê.” – Tôi nói vội.

Nó bật cười. 

“Ừ tao cũng thấy thế. Chắc vụ này sẽ được xử thôi. Mong anh ta tìm được điều mình muốn.”

Có lẽ đã là lon thứ sáu hay thứ bảy gì đấy. Đá đã hết. Mồi đã cạn. Còn chút hơi ấm của lò nướng và bia nhạt để chống chọi với sương càng lúc càng dày. Hai chúng tôi im lặng dọn dẹp.

Đêm hôm đó tôi ngủ rất ngon, chẳng bị ai đòi nợ. Nghĩ cũng buồn cười khi tự nhiên bị một tên điên khùng ở đâu đó làm cho mình lo lắng. Tôi đã làm gì sai với cuộc đời này đâu, trừ việc không thỏa mãn được cái tôi, bất đắc chí bất phùng thời bỏ bê khả năng của bản thân? Tôi chỉ mắc nợ chính mình như cái nước Mỹ tự in tiền và mượn nợ chính họ; việc trả thì tùy hỷ.

Hôm sau hai chúng tôi cà phê sáng. Quán lặng để mười sáu con chim của ông chủ rống rung trời. Ở cái vùng khỉ ho cò gáy này nhìn vậy chứ không phải ai cũng có sân vườn, mà ai cũng thích cái đẹp nên quán của ông chú mỗi sáng đều đông từ lúc mở cửa cho đến lúc mặt trời tìm cách vượt đỉnh Phrăng và sau đó vãn dần.

Hai chúng tôi vẫn ngồi chỗ cũ. Khác thường ngày, thằng bạn sẽ ăn sáng rồi mới uống cà phê,  hôm nay nó ngáp và gọi nước.

“Sao vậy? Không ngủ được à?”

“Ừ.”

“Tao thì ngủ ngon.”

“Mày có bao giờ phải trằn trọc vì cái gì đâu.”

“Mày thì có chắc?”

“Dĩ nhiên.”

Ông chủ bưng cà phê ra. Quán gia đình, không có thuê nhân viên: vợ đứng quầy chồng chạy bàn, chồng mệt thở thì vợ lăng xăng. Có lẽ do vậy cùng với vài chục héc ta đang cho thuê làm nương mà quán bán nước ngon, giá lại rẻ hơn những tiệm sân vườn và cà phê máy lạnh trên huyện. 

“Nay tụi bây cà phê trễ thế?” – Ông chủ hỏi.

“Vụ án điều tra hơi mệt.” Thằng bạn nói.

“Khó khăn dữ vậy à?”

“Đối tượng cứng đầu không khai nhân thân dù đã tường trình đầy đủ quá trình phạm tội. Tụi con không tài nào cạy miệng được.”

“Chắc tại hóa rồ ấy mà. Nhiều người bây giờ dở người lắm. Chơi thuốc chơi đồ hỏng cả một thế hệ! Tụi bây vậy là giỏi, cứ ở quê nhà thế này là được. Cần chi đi thành phố? Cứ về đây ở cho khỏe.”

Chúng tôi ngồi nghe ông chủ càm ràm thêm chút nữa. May là có khách vào buộc ông chú phải rời đi.

“Tao tưởng mày trút hết nỗi lòng từ hôm qua rồi mà.”

“Ở đây làm gì có nỗi lòng nào? Leo Phrăng hoài cũng chán. Tất cả đều chán. Giờ tao chờ cưới vợ sinh con hưởng ké mấy mẫu đất nữa là đủ.”

“Không muốn leo à?”

“Leo chi? Sống lâu lên lão làng. Hơn nữa làm trong bất kì ngành nào cũng đừng có đứng cao quá. Trèo cao té đau. Ở giữa nói dối cấp trên đe nẹt cấp dưới là đủ rồi.”

“Cán bộ mà mất dạy mày?”

Thằng bạn cười khẩy. Từ cấp ba đến giờ nó luôn ẩn thân như vậy nên chẳng ai biết nó đang nghĩ gì, đùng một cái đậu trường Công An rồi biệt tích ở thành phố lớn. Học xong thì phải từ biệt mọi vui vẻ náo nhiệt để về xứ khỉ ho cò gáy này, ai mà chả khó chịu? Nhưng nó lại không. Tính ra vậy cũng ổn vì nó không bị thiếu tiền và hay bị khổ vì thiếu tiền. Ăn no ngủ ấm rồi mới tính tới mấy cái khác được.

“Thật ra mấy hôm nay tao ngủ không ngon.” – Bạn nói.

“Sao hôm qua say lại không nói?”

“Tao diễn kịch.”

“Khinh nhau à?”

“Có những thứ ta phải tự trải qua, chẳng hạn như một cơn ác mộng, hay tham gia một khóa huấn luyện đến kiệt sức, mới vỡ lẽ được. Từ lúc bắt đối tượng tao luôn có câu hỏi về động cơ của hắn. Nay ngủ một giấc thật sâu nhờ rượu tao chợt vỡ lẽ ra hắn cũng giống tụi mình.”

“Tao chưa gặp nên không dám nói.” Tôi nhún vai.

“Mày cũng đọc báo với đọc bản tường trình tao đưa rồi mà.” 

“Đó là lời của mày, không phải của tao. Mắt thấy tai nghe. Ông bà đã dạy rồi. Nhìn hình chụp tao không thấy có vẻ gì là nguy hiểm cả. Kiểu điên mà hiền thơ thẩn ở Biên Hòa đấy. Nhưng cũng chỉ vậy thôi. Hạng người vô công rồi nghề đấy tốt nhất nên ăn bám gia đình để đỡ phá làng phá xóm. Dù phá làng phá xóm thì mày mới có công chuyện để làm.”

“Thế thì tao dẫn mày gặp hắn.” 

Tôi từ chối. Tôi không tự tin để nhận lời mời của bạn. Đấy là hèn. Tôi chấp nhận mình hèn. Đó giờ hèn rồi thêm chút nữa không sao. 

“Tại sao?”

“Tự nhiên tao lại phải dính với tội phạm? Thôi xin.”

Chợt thằng bạn có điện thoại. Xì xà xì xồ. Tôi không cố ý nghe lén nhưng hẳn có liên quan đến đối tượng nên mặt nó mới biến sắc. Tôi hỏi vào thì nó nói:

“Đối tượng đã trốn khỏi trại giam rồi.”

Cả ngày hôm ấy vùng đất khỉ ho cò gáy xao động.Vụ phóng hỏa không lan rộng nhờ may mắn, nên không ai dám chắc nếu đối tượng manh động lần nữa hậu quả gì sẽ xảy ra. Tội thằng bạn. Tôi cho rằng trong khoảng thời gian kẻ phóng hỏa vừa trốn hẳn nó đã căng thẳng đến nổ tung. Mà thôi, đó là số phận của những người ngồi giữa: Không chết nhưng vẫn bị hành hạ, và sau đó hành hạ lại người khác. Cuộc hẹn sáng bị cắt ngắn một cách đắng ngắt. Ai làm việc nấy.

Tôi tiếp tục một ngày bình thường bằng việc đóng cửa nhốt mình trong phòng tìm hết nguồn giải trí này đến nguồn giải trí khác. Tôi nghe đâu đó là cơ chế để lại từ thời là vượn – Không bao giờ là đủ vì thừa thì không chết, thiếu mới chết. Đó là bản năng không một định chế hay hệ thống nào ngăn cản hoặc điều tiết được. Để có tài nguyên thì ta cần thông tin vì thông tin, và rộng hơn là kiến thức chính là chỉ dấu tài nguyên cần thiết cho việc sinh tồn. Tiến hoá là một thế lực cực kì bảo thủ, và những con người tân thời đã, đang và sẽ khai thác những con vượn trong đầu bằng cách vũ trang hóa các sản phẩm và đánh trực tiếp vào bản năng không thay đổi. Tôi biết hiện tại mình đang bạc nhược vì đang giải trí đến chết, chỉ tiêu thụ và tiêu thụ như loài gia súc. Tôi đang nợ chính mình một khát khao để xây dựng, một di sản để truyền thừa, nhưng rốt cuộc lại vật vờ qua ngày ở vùng đất khỉ ho cò gáy này. Bạn tôi thì ít nhất nó còn có thể vịn vào tính thiết yếu của công việc với xã hội để mà sống đến già, còn tôi chẳng có gì níu kéo và cứ rơi tự do cho đến hết đời.

Tôi cứ ngồi như thế thì hết sáng. Mẹ tôi gọi xuống ăn trưa. Bố tôi vẫn còn ở trên rừng theo chỉ đạo. Ông làm cái gì thì tôi không rõ – dù sao ông cũng biết tôi sẽ không gánh cơ nghiệp. Em trai tôi là người được chọn. Thú thật tôi cũng không có phàn nàn gì, thậm chí còn mừng. Người ta nói lãnh đạo giỏi là lãnh đạo biết nhìn và chọn người: Em tôi không chỉ ngoan hơn mà còn ngu hơn thằng anh – Nó không bao giờ tự hỏi bản thân hay tò mò; giao việc thì luôn cố gắng hoàn thành càng nhanh càng tốt. Một người làm công xuất sắc theo chuẩn giáo dục đầu ra hiện tại, không như tôi.

“Dạ tình hình sao rồi?” Tôi hỏi mẹ. Đồ ăn trên bàn cho bốn người với chỉ hai cái chén dọn sẵn. Tôi nghĩ thầm trong bụng chắc bà nấu trước cho buổi tối. 

“Vụ gì con?”

“À không có gì.”

Có lẽ là bà chưa biết. Hoặc không biết. Dễ hiểu là bên công an không muốn dứt dây động rừng. Hai mẹ con ăn trong im lặng. Tôi đã từ bỏ quyền thừa hành của gia đình này nhưng được cái ngoan ngoãn nên vẫn được cho một căn phòng và ăn chung. Xong bữa, tôi dọn dẹp và trốn trong phòng như thường lệ, để mẹ một mình với công việc nhà.

Tối hôm đấy tôi gặp ác mộng – là gì tôi không tài nào nhớ được. Theo lời kể lại thì tôi ú ớ như thể đang gần đất xa trời. Tôi thức dậy sức lực cạn kiệt, đầu óc thì mù mờ, cơ thể như một cỗ máy thiếu nhớt hết xăng. Có thể là do cà phê, có thể là do thủ dâm. Tôi đã biết cảm giác ớn lạnh khi gần chết là như thế nào dù bản thân hiện tại đã vật vờ. Tôi biết điều đó, nên mọi thứ càng trở nên tồi tệ hơn. Thà không biết thì tôi có thể ngu si hưởng thái bình chứ thấy quan tài rồi thì phải đổ lệ. 

Những gì đọc phải về gã tội phạm làm tôi bị ám ảnh nên vòng lặp khó ngủ – ngủ vùi – vô dụng do giờ giấc không giống ai cả cứ thế đóng chết. Tới ngày thứ ba, tôi quyết định mình phải làm gì đó. Nhìn lại thì Kẻ Đòi Nợ đã tóm được tôi lúc đấy: Chút hối hận cuối cùng khi nhìn thấy tuổi trẻ của bản thân chết theo kiểu qua ngày đoạn tháng nổi loạn lần chót. Ngọn lửa lòng luôn rúc mình chờ cơ hội, chỉ một mồi nhỏ thôi, để bừng dậy như đám cháy nơi nhà nghỉ; một cú hích để khởi động mọi thứ; một dạng xúc tác thổi bùng lên sự hồi quang phản chiếu cần để sống thật đẹp lần cuối. Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt. Nhưng cơ hội ở đâu? Tôi chịu.

Nên tôi đã rời nhà. 

Thường tôi ở trong nhà, chủ yếu ở trong phòng, nên đợt dịch bệnh vừa qua không ảnh hưởng gì mấy. Thế nên việc đi dạo thư thả làm cơ thể tôi choáng váng. Cái lưng vốn quen được bợ đỡ bởi yên xe và ghế đệm nay phải gồng gánh cả cơ thể – cân nặng của tôi tăng dần đều từ lúc trở về nhà ăn bám. Tôi tản bộ sau một chiều ngủ vùi như một người mộng du.

Tôi thấy hoàng hôn loạng choạng quành đỉnh Phrăng làm chút nắng thừa chảy xuống mặt đường. So với thời sống ở Sài Gòn nơi đây nhiều cây ít xe nên không khí trong lành. Tôi đi chậm, cảm nhận mặt đường nhựa cấn vào lòng bàn chân bất chấp miếng xốp mỏng của đôi tông lào. Nhà cửa thưa thớt. Căn nào cũng có góc sân và khoảng trời rộng, không có thù hằn tranh nhau từng viên gạch và cửa sổ để thở. Tôi để ý nhiều căn nhà ở thành phố chẳng buồn đục cửa sổ ở hai bên hông; gió không có lối để vào nên tất cả đều nhờ máy quạt hoặc máy lạnh để vượt qua những buổi trưa nóng bưng đầu. Sương bắt đầu ùa ra từ bên dưới cành lá. Thi thoảng có xe chạy qua, tôi đoán đó là những người làm đồng hoặc bán ở chợ về – Không gian bị quấy động trong một khoảnh khắc rồi đặc lại. Dù sao ta không thể bị lạc ở chốn khỉ ho cò gáy bé như cái lỗ mũi này. Mà nếu lỡ có lạc thì tôi chỉ cần hỏi đường và nói tên bố là người ta sẽ tận tình dẫn về. Tôi tản bộ không có đích đến – như trước giờ. Và trời tối lúc nào không hay. 

Mặt trời lúc này bị núi Phrăng nuốt chửng. Đèn đường lại chưa được bật. Hỗn hợp gió và sương mù khiến cho những hàng cây sống dậy; tiếng thì thào của chúng nương theo những cơn rít của không khí làm tôi khẽ rùng mình. Một số nhà đèn hiên sáng sẵn tựa như hải đăng trong đêm mưa bão. Tôi cứ đi như vậy mà không có kỉ niệm tuổi thơ nào ùa về, có lẽ do bản thân đã mục rỗng từ lâu nên con đường này cũng giống mọi con đường tôi đã và sẽ đi. Và hơn nữa, dù có trù liệu trước thì số mệnh luôn bày sẵn cho ta những bất ngờ. Như cách mà tôi choáng váng khi phát hiện mình đã lạc bước đến hiện trường vụ cháy và thấy hắn. 

Ban đầu tôi tưởng mình nhầm nhưng không, có thứ gì đấy ngồi trước hiện trường, hấp thụ lấy tro và than xung quanh để bật thành một nét đậm hình người. Tôi không biết phải phản ứng như thế nào nên nín lặng quan sát. Đèn đường rực lên làm mọi thứ lòa đi. Tôi nhận ra người hắn tỏa ra một thứ hào quang vô hình mà ảnh chụp không bao giờ có thể truyền thần hết được. Hắn ngồi lặng đó, trước đống tro tàn. Khu nhà được rào lại và vẫn chưa có ai động tới. Tôi chợt nghe thấy tiếng chân, tiếng tim và tiếng thở của mình lớn dị thường. bóng đen kia cũng thay đổi, đã ra hình người.  Đối tượng là một gã khắc khổ được tối ưu hóa cho việc biến kẻ đối diện thành con mồi – ở đây là tôi. Thứ áp lực gì đây? Tôi tự hỏi. 

“Xin chào.”

Đối tượng cất tiếng. 

Tôi khựng lại. Đánh-hay-chạy? Tôi là kẻ hèn nên té bật ngửa. Không có trăng, sao cũng không tỏ lối. Tiếng chân của hắn càng lúc càng gần. Tôi chết chắc rồi. Lần trước hắn phóng hỏa may mà không chết người. Lần này thì sao? Hắn sẽ giết tôi và chấm dứt sự trống rỗng này chứ? 

Tôi hét:

“Đừng lại gần, không thì tôi sẽ báo công an!”

Hắn cười một nụ cười chấp nhận và đầy tình thương như cách thầy chùa cười chào phật tử hay cha xứ chào con chiên. Tôi không thể nào quên được nụ cười ấy. Nó không rạng rỡ như ánh mặt trời đầu ngày lấp ló sau lưng núi Phrăng, cũng không ấm áp như màu nắng buổi hoàng hôn trùm lên cái vùng đất khỉ ho cò gáy này. Thậm chí nó không dịu dàng như vầng trăng khuyết treo trên đỉnh Phrăng. Nó là một thứ gì đó khác làm tôi liên tưởng đến tượng Đức Thế Tôn mỗi dịp Tết hay tượng của Ngài mỗi dịp Giáng Sinh. Nhưng đối tượng chuyển từ những dòng ghi chú về tội ác trở thành một người bằng xương bằng thịt, tôi sao có thể tin tưởng chứ?

Hắn nhận thức được tình hình nên ngừng lại. Vẫn vận trên người quần áo phạm nhân nên trông hắn rất buồn cười, giống như thể mấy cái ảnh hài vớ vẩn trên mạng về việc ông sư mang Air Force 1 hoặc hình Buakaw đi tu ngắn hạn. 

“Anh bạn có phiền không nếu tôi nhờ anh một chuyện?” Hắn nói, từ tốn như suối chảy.

“Có.” 

“Vậy tôi sẽ không ép anh bạn. Nhưng nếu có ai hỏi thì cứ nói tôi sẽ lên núi Phrăng.”

“Khoan! Nói vậy tức là ông muốn lôi tôi vào vụ việc lần này?”

“Tại sao không? Cậu đã ngẫu nhiên gặp tôi nên hẳn có lý do. Tại sao cậu lại đến hiện trường vụ việc do tôi gây ra nếu không phải do trong bụng cậu chứa đầy những suy nghĩ về tôi? Và tôi vẫn còn quá nhiều suy nghĩ về những gì vừa xảy ra cho chính mình. Đó là lý do chúng ta ngẫu nhiên gặp nhau. Tôi biết cậu còn nhiều nợ cần phải trả, nên tôi mới mong cậu giúp tôi một chuyện.”

Tôi trố mắt ngạc nhiên, người thì run bần bật. Hẳn là do sương lạnh và sợ hãi chứ không thể do hắn được. Tôi nói:

“Vậy việc anh cần là gì? Mà khoan anh tên gì?”

“Cậu đã biết rồi.”

“Không. Tôi không biết anh. Tôi biết phạm nhân phóng hỏa. Không phải anh. Không thể là anh.”

Hắn ta cười. Và gật.

“Tôi đã chết rồi.”

“Tôi cũng đã chết rồi.”

“Chưa. Cậu chưa chết.”

“Sao anh biết?”

“Cậu còn ở đây. Cậu không phải là tôi. Tôi cần phải lên núi Phrăng. Cậu thì không. Cậu không thể lên đó. Hay đi đâu cả. Cậu bị trói buộc với nơi này.”

“Điều đó thì liên quan gì đến việc tôi còn sống hay đã chết?”

“Không có liên quan gì cả. Nên cậu mới đang sống. Cậu chọn đi tiếp hay ở lại hay bỏ đi hay trốn biệt hay ở trong phòng là tùy cậu. Cậu chỉ chết khi cậu đã hết lựa chọn. Kể cả việc cậu chọn không trả nợ cho chính bản thân mình.”

“Thế rốt cuộc tôi cần giúp anh chuyện gì? Này, giờ cuộc trò chuyện của chúng ta đã đi quá xa rồi.”

Tôi nghĩ cuộc đối thoại của chúng tôi đã diễn ra như vậy. 

“Chờ tôi ở dưới chân núi Phrăng lúc trăng non. Tôi cần một nhân chứng cho việc bản thân đã trả hết nợ.”

“Vui lòng nói theo dương lịch.”

“Ba ngày nữa.” Hắn chỉ lên. Trăng khuyết đang ngủ trên đỉnh Phrăng, giấu mình sau làn mây.

Lại ba ngày, tôi thầm nghĩ. Hắn lỉn vào bóng tối còn tôi lần theo những ngọn đèn hiên lờ mờ về nhà. Chờ đợi không khó nhưng nhìn bạn tôi mệt mỏi, nhìn mẹ tôi lo lắng, nhìn bố và em trai căng thẳng mỗi lần họ ở nhà làm tôi lay động và suýt buột miệng. Nhưng tôi đã kiềm chế được. Ngẫm lại, tôi đã hành xử thiếu logic. Tôi chỉ cần nói kẻ ác đang ở trên núi Phrăng – ít nhất có theo lời khai thì ai ai cũng sẽ thở phào nhẹ nhõm. Nhưng không, tôi đã ích kỷ và lại nặng nợ. Phóng lao thì phải theo lao. Tôi đã hứa thì tôi sẽ làm. Hơn nữa ngọn lửa trong mắt hắn đã tắt rồi. Tôi có thể khẳng định như vậy.

Tôi quay lại chỗ nhà nghỉ bị đốt theo lịch hẹn. Có vẻ việc dọn dẹp đã xong và chủ bắt đầu xây lại. Họa vô đơn chí, tôi thầm nghĩ. Nhưng chuyện gì xảy ra cũng đã xảy ra rồi, nên tôi đi tiếp đến chân núi. 

Hắn ngồi đài sen chờ sẵn dưới bóng cây bàng, hơi lùi vào so với đường cái. Dù trăng không tỏ nhưng tôi biết mùi rừng này. Tôi trộm nghĩ liệu hắn có thấy bố và em trai không. Tôi không hỏi – tôi tới đây để lắng nghe, nên tôi ngồi xuống và bật chế độ thu âm của điện thoại lên.

Cứ như thế hắn bắt đầu kể. Câu chữ cứ tuôn như cách sông dâng mang theo trong mình bao nhiêu là phù sa. Tôi bị choáng ngợp nhưng nuốt từng lời như cây cối reo vui mùa nước lớn. Chúng thấm vào trong cơ thể tôi, linh hồn tôi và thổi vào đấy một sức sống mới. Đây là nghe giảng đạo sao? Đây là lòng thành sao? Tôi không biết. Nhưng tôi nhớ mình đã viết lại câu chuyện hắn kể: Hễ mà tôi ở nhà, và tôi ở nhà rất nhiều, là tôi bật laptop lên mà viết lấy viết để, bản thảo đầu tiên hoàn thành trong vòng ba ngày. 

Sau này tôi không nghe thêm được gì về hắn nữa. Mọi người bỏ cuộc. Câu chuyện của hắn có vẻ cao siêu và nhức đầu nhưng tôi nghĩ gã tội nghiệp đó nên về một bệnh viện tâm thần ở xuôi hoặc lên thẳng đỉnh núi Phrăng mà sống một mình đến cuối đời. Tôi đã viết nó – câu chuyện của hắn – thành một truyện ngắn tên là “Nợ”. Tôi quyết định gửi nó đến một tạp chí văn học và đang chờ kết quả. Tôi biết đây là một câu chuyện điên rồ được kể bởi một người đang bị suy sụp tinh thần, sẽ chẳng có ai xuất bản vì lợi nhuận sẽ nhận. Với cả nếu mà tạp chí nọ không nhận thì tôi sẽ đăng tải nó trên mạng một cách ẩn danh với hi vọng nó ngẫu nhiên gặp đúng người – Như cách tôi vô tình gặp hắn.

Còn câu chuyện của chính tôi vẫn đang được viết tiếp. Tôi nghĩ hắn đã đúng. Ít nhất việc sáng tạo giúp tôi rất nhiều trong việc đỡ thấy trống trải thường ngày. Sau rốt thì chẳng còn ai nhắc tới những gì đã diễn ra trừ phi nốc một két bia và hết chuyện để kể. Phần tôi thì tôi tin hắn đã trả hết phần của mình, và những gì tôi vừa ghi lại trên đây giúp tôi trả lại một phần của tôi.

CATEGORIES
Share This

COMMENTS

Wordpress (0)